NHỮNG TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG HỆ THẬN – TIẾT NIỆU – SINH DỤC
HỎI BỆNH – KHAI THÁC CÁC
TRIỆU CHỨNG CƠ NĂNG
Là cơ sở đánh giá bệnh và
các tình huống chẩn đoán. Tuy nhiên người bệnh thường không có khả năng mô tả
chính xác các triệu chứng vì họ thường lo lắng quá mức và hạn chế về hiểu biết.
Do vậy muốn phát hiện được những triệu chứng chính xác cần hướng bệnh nhân vào
những câu hỏi phục vụ cho mục đích chẩn đoán. Đầu tiên cần làm cho bệnh nhân có
cảm giác thoải mái,cần lắng nghe tìm hiểu lý do bệnh nhân đi khám bệnh.
Hỏi bệnh nhằm tìm hiểu:
Những triệu chứng chính
và diễn biến những triệu chứng chính.
Tiền sử bệnh
Tiền sử gia đình.
Các triệu chứng của đường
tiết niệu trên (các cơn đau):
Cơn đau quặn thận điển
hình:
Vị trí: vùng thắt lưng,
sườn lưng, đau lan xuyên, xuống dưới, ra trước có khi lan ra bộ phận sinh dục
ngoài.
Khởi phát đột ngột, dữ
dội, hoặc xuất hiện khi bệnh nhân hoạt động nhiều (sau lao động nặng hoặc đi
xa)
Các dấu hiệu đi kèm:
Mót tiểu, tiểu dắt, tiểu
buốt.
Nôn, buồn nôn, bụng
chướng.
Khám:
Toàn thân: hốt hoảng, vã
mồ hôi, có khi có sốt.
Vùng thắt lưng: co cứng
khối cơ cột sống, cơ thắt lưng chậu, nửa bụng bên đau co cứng, không có cảm ứng
phúc mạc.
Nguyên nhân:
Do ứ căng đột ngột ở đài
bể thận phía trên chỗ tắc. Có thể do sỏi, do co thắt, do viêm nhiễm. Dùng các
thuốc giảm đau, giãn cơ trơn, nằm nghỉ, bệnh nhân sẽ đỡ hoặc hết đau.
Nếu bệnh nhân có sốt là
tiên lượng tồi, cần phải theo dõi.
Đau âm ỉ vùng lưng hàng
ngày, hàng tuần cơn đau được phát hiện khi sờ nắn vào vùng hố thắt lưng hoặc
bệnh nhân ở trong tư thế đứng.
Cơn đau thể biến chứng:
Vô niệu do sỏi thận niệu
quản trên thận duy nhất.
Nhiễm khuẩn cấp: sốt, đau
lưng, đái đụng, suy thận…
Nguyên nhân:
Cơn đau thận 2/3 trường
hợp do sỏi tiết niệu
32 % sỏi đài thận.
47 % sỏi bể thận.
95 % sỏi niệu quản.
Dị dạng bẩm sinh: hội
chứng khúc nối niệu quản bể thận
Các nguyên nhân: khối u
đường tiết niệu hoặc ngoài đường tiết niệu
Cơn đau bàng quang:
Là do căng giãn quá mức
bàng quang, hậu quả những tắc nghẽn cấp tính ở cổ bàng quang và niệu đạo.
Có khi là cảm giác khó
chiệu không thoải mái ở vùng trên xương mu, hậu quả của viêm bàng quang cấp
hoặc viêm bàng quang kẽ hoặc tắc nghẽn không hoàn toàn.
Cơn đau tiểu khung và bộ
phận sinh dục:
Cơn đau dữ dội hay âm ỉ,
kèm theo rối loàn tiểu tiện.
Cơn đau co bóp bàng quang
yêu cầu tiểu gấp (sỏi niệu đạo, u phì đại tuyến tiền liệt)
Cơn đau do hiện tượng
trào ngược nước tiểu. Đau chói từ phía dưới dâng cao dần lên hố thắt lưng. Cơn
đau thường xảy ra trước hoặc trong khi đi tiểu.
Đau tuyến tiền liệt: Cảm
giác đau sâu vùng hậu môn và tầng sinh môn, cảm giác đau thường tăng lên ở tư
thế ngồi.
Đau tinh hoàn, mào tinh
hoàn: đau tử vùng bìu lên ống bẹn.
Các cơn đau cấp tính
thường do chấn thương, xoắn tinh hoàn, viêm mào tinh hoàn cấp.
Các cơn đau mãn tính
thường do bệnh giãn tĩnh mạch thừng tinh, ứ nước màng tinh hoàn hoặc thoát vị
bẹn.
Các triệu chứng của đường
tiết niệu dưới gồm bàng quang - tuyến tiền liệt - niệu đạo;
Hội chứng kích thích:
Tiểu dắt, tiểu gấp:
Tiểu nhiều lần trong ngày
- mỗi lần ít nước tiểu nhất là ban đêm.
Phân biệt đi tiểu nhiều:
(đái tháo nhạt)
Nguyên nhân : bàng quang
bị kích thích do viêm, do dị vật, do u phì đại tuyến tiền liệt kích thích vùng
cổ bàng quang. Có khi do u tiểu khung, các bệnh lý trong tiểu khung hoặc do sỏi
niệu quản sát bàng quang. Hoặc bàng quang tăng co bóp do nguyên nhân thần kinh,
bàng quang giảm dung tích.
Tiểu buốt:
cảm giác đau rát bỏng khi
đi tiểu, thường kèm theo đái dắt.
Cơn đau buốt có khi toàn
bộ thời gian tiểu tiện hoặc chỉ đau buốt lúc đầu.
Hội chứng tắc nghẽn.
Tiểu khó:
Đái khó lúc khởi đầu:
bệnh nhân không đái được ngay, cố rặn khi đái, tia nước tiểu yếu, có khi không
thành tia nỏ giọt xuống chân. Thời gian đi tiểu lâu. Sau khi tiểu xong không
cảm giác thoải mái.
Nguyên nhân: các bệnh lý
vùng cổ bàng quang và niệu đạo như u phì đại tuyến tiền liệt. K tuyến tiền
liệt, co thắt cổ BQ, xơ cứng cổ BQ, sỏi BQ, hẹp niệu đạo, BQ thần kinh.
hậu quả của đái khó:
Giai đoạn đầu: thành bàng
quang dày lên do phải tăng co bóp để thắng cản trở cơ học.
Giai đoạn sau: bàng quang
mất bù, cơ bàng quang nhão, ứ đọng nước tiểu à nhiễm khuẩn niệu. Nguy cơ viêm
bể thận ngược dòng, nước tiểu ứ đọng trong bàng quang, trào ngược lên thận.
Bí đái:
Là hiện tượng có nước
tiểu trong bàng quang nhưng bệnh nhân không thể nào đái ra được ( cần phân biệt
với vô niệu: không có nước tiểu trong bàng quang).
Bí đái hoàn toàn : cấp
tính
Đau căng tức trên xương
mu.
Luôn buồn tiểu dữ dội
nhưng không đái được
Khám cầu bàng quang rất
căng – ấn vào đau.
Đòi hỏi phải thông đái
hoặc dẫn lưu nước tiểu cấp cứu.
Bí đái không hoàn toàn:
mãn tính
Đó là tình trạng luôn ứ
động nước tiểu trong bàng quang > 300 ml.
Tiểu không tự chủ:
Là hiện tượng nước tiểu
rỉ ra ngoài ý muốn của bệnh nhân:
Rỉ nước tiểu liên tục:
rối loạn chức năng cơ thắt bàng quang niệu đạo do các tổn thương ở não hoặc sau
phẫu thuật TLT làm tổn thuơng hệ thống cơ thắt vân niệu đạo.
Cần phân biệt với rỉ nước
tiểu liên tục ở trẻ em do niệu quản lạc chỗ hoặc rò nước tiểu bàng quang âm
đạo.
Đải rỉ gắng sức: là hiện
tượng rỉ nước tiểu ngoài ý muốn khi bệnh nhân có một hoạt động gắng sức.
Tiểu ra máu:
Nước tiểu đỏ có hống cầu:
cặn Addis HC > 500.000 HC/ phút.
Phân biệt nước tiểu đỏ
không phải tiểu ra máu do màu đỏ của thức ăn đồ uống do Rifampiam phenothiarim,
pyridium. Tiểu ra huyết cầu tố do vỡ hồng cầu.
Quan sát nước tiểu đỏ
hồng, đỏ tươi, đỏ thẫm, máu cục.
Cách khởi phát, diễn
biến, mức độ
Cần xác định vị trí chảy
máu tiểu đường tiết niệu: xơ bộ bằng quan sát nước tiểu. Nghiệm pháp ba cốc:
Đái máu đầu bãi: thương
tổn ở niệu đạo
Đái máu cuối bãi: thương
tổn ở bàng quang.
Đái máu toàn bãi: thương
tổn ở thận.
Tuy nhiên thương tổn nặng
ở bàng quang cũng tiểu ra máu toàn bãi.
Những biểu hiện khác:
Tiểu máu đỏ có vẩn đục
váng mỡ, đái máu dưỡng chấp.
Nước tiểu đỏ lẫn chất
nhầy lóng trắng trứng (tiểu máu tinh dịch hemospermea).
Tiểu ra mủ:
Nước tiểu đục mủ trắng có
bạch cầu thoái hoá: cặn Addis 5000 BC/phút.
Phân biệt nước tiểu đục:
vẩn đục, đục như nước vo gạo, đục như sữa.
Nước tiểu đục trắng: tiểu
cặn phosphat nhỏ acid acetic: nước tiểu sẽ trong và lắng cặn.
Tiểu ra albumin: khi hơ
nóng Albumin sẽ đông thành sỏi lởn vởn trong nước tiểu.
Tiểu ra cặn urat: đun
nóng nước tiểu sẽ trong.
Tiểu ra mủ nhiễm khuẩn
tiết niệu N > 105/ml
Các bệnh lý thường gặp
nhiễm khuẩn tiết niệu là sỏi và dị dạng bẩm sinh đường tiết niệu.
Các vi khuẩn thường gặp
là: E.Coli, Klebsiella, enterobacter, tụ cầu vàng, proteus, pseudomonas
Aeruginosa, liên cầu nhóm B
Các triệu chứng rối loạn
chức năng sinh dục:
Rối loạn chức năng sinh
nam mà danh từ thường gọi là bất lực được biểu hiện dưới nhiều hình thức: mất
ham muốn, không có khả năng cương dương hoặc duy trì cương dương. Không có khả
năng phóng tinh, khả năng thực hiện khoái cảm và xuất tinh sớm.
Hỏi tiền sử bệnh: các
bệnh nội khoa, ngoại khoa từ trước và hiện tại. Có nhiều bệnh nội khoa ảnh
hưởng đến hệ tiết niệu: lao, đái đường, cao huyết áp.
Tiền sử gia đình: cho
thêm các thông tin liên quan đến yếu tố nguy cơ và nguyên nhân bệnh.
KHÁM BỆNH:
Triệu chứng toàn thân:
Gầy sút nhanh, thể trạng
suy sụp : thường gặp ở bệnh nhân tiết niệu. Chủ quan người bệnh biết giảm cân
nhanh mỏi mệt chán ăn, mất ngủ. Thiếu máu mất nước, điện giải như trong các
bệnh viêm đài bể thận, ứ nước, ứ mủ thận, suy thận, ure máu cao, ung thư.
Sốt cao kéo dài 38 – 39,50C
, có cơn rét run kèm theo đau thắt lưng hoặc rối loạn tiểu tiện, thường là biểu
hiện viêm nhiễm khuẩn tiết niệu. Bao gồm: viêm thận bể thận, viêm apxe tiền
liệt tuyến, viêm tinh hoàn, mào tinh hoàn. Những cơn sốt hay đợt sốt kéo dài
không giải thích được nguyên nhân cũng có thể là dấu hiệu của ung thư thận.
Khám hệ tiết niệu:
Nguyên tắc: khám toàn
diện, khám cả hệ tiết niệu và hệ sinh dục, sờ nắn là chủ yếu và đánh giá thành
bụng.
Phát hiện: điểm đau, phát
hiện khối u vùng thắt lưng, vùng BQ, tiền liệt tuyến với các tính chất: kích
thước, hình dáng, mật độ, bề mặt, bờ di động theo nhịp thở và với các bộ phận
xung quanh.
Khám thận với các nghiệm
pháp:
Nghiệm pháp chạm thắt
lưng:
Cách khám:
Khám bên nào thì người
thầy thuốc đứng cùng bên với người bệnh, bàn tay bên đối diện đặt vào vùng thận
(góc sườn lưng). Bàn tay kia đặt phía trên bụng song song với bờ sườn hay dọc
theo bờ ngoài cơ thẳng to. Bàn tay dưới áp sát vùng sườn lưng, bàn tay trên ấn
xuống bình thường không có cảm giác gì.
Nếu thận to sẽ có cảm
giác một khối u chạm xuống bàn tay dưới: nghiệm pháp chạm thắt lưng dương tính.
Nghiệm pháp bập bềnh
thận:
Bàn tay dưới vùng sườn
lưng hất nhẹ lên từng đợt và bàn tay trên bụng ấn nhẹ xuống. Nếu thận to sẽ cảm
thấy thận bập bềnh giữa hai bàn tay: nghiệm phấp bập bềnh thận dương tính.
Có thể đặt bệnh nhân nằm
phía bên đối diện để làm hai nghiệm pháp trên.
Có cách khám một bàn tay:
ngón tay cái phía trước, bốn ngón kia phía sau ép vào vùng sườn lưng. Nếu thận
to khi bệnh nhân thở sẽ thấy thận di động lên xuống trong lòng bàn tay. Thường
áp dụng khi khám thận trẻ em.
Khám các điểm niệu quản:
điểm niệu quản trên: giao
điểm của đường thẳng ngang qua rốn với bờ ngoài cơ thẳng to.
Điểm niệu quản giữa: điểm
1/3 ngoài của đường ngang nối 2 gai chậu trước trên.
Điểm niệu quản dưới: sát
bàng quang, tham khám qua trực tràng âm đạo.
Các điểm này ấn đau khi
có sỏi niệu quản nhưng không phải là điểm xác định vị trí sỏi.
Khám cầu bàng quang khi
bệnh nhân bí đái:
BQ bình thường không sờ
thấy nếu như nó có dưới 150 ml nước tiểu. Khi BQ căng vào khoảng 500 ml có thể nhìn
thấy ở BN gầy: thấy BQ căng là một khối ngay trên xương mu dưới rốn. Có ranh
giới rõ rệt, gõ đục, khối căng ấn vào gây cảm giác buồn đi tiểu.
Khám TLT: chủ yếu là thăm
trực tràng
Tư thế:
Bệnh nhân nằm ngửa, hai
chân dạng rộng và gấp.
Người khám đứng giữa hai
đùi hay bên phải.
Cách khám:
Dùng ngón tay trỏ có găng
và bôi nhiều dầu trơn.
Thăm trực tràng không
quên đánh giá cơ thắt hậu môn, khám toàn bộ vùng niêm mạc trực tràng, túi cùng
Douglas.
TTL bình thường trên dưới
20 gram (2 -2,5 cm), mật độ mềm, ranh giới rõ, không đau.
U phì đại lành tính TTL:
thăm trực tràng sờ thấy khối, mật độ mềm đều căng, ranh giới rõ. KHối u có thể
to (đường kính: 4 – 5 cm, hay hơn nữa)
Phân biệt ung thư TLT:
TLT có nhân rắn hay là một khối u rắn chắc không cân đối, ranh giới không rõ
ràng, không di động.
Thăm trực tràng là động
tác phối hợp khi thăm khám tiết niệu để phát hiện dấu hiệu bệnh lý ở bộ phận
tiết niệu thấp như TLT, túi tinh, u bàng quang, rỏ bàng quang trực tràng, rò
niệu đạo trực tràng.
Khám vùng bìu bẹn (khám
niệu đạo và bộ phận sinh dục ngoài)
Những dấu hiệu bệnh lý
vùng bẹn bìu thường gặp khi cấp cứu hoặc khi khám bệnh hàng ngày. Những thương
tổn có khi tại chỗ vùng bẹn bìu thuộc hệ sinh dục, có thể là dấu hiệu những
thương tổn từ xa như hệ tiết niệu, hệ tiêu hoá phúc mạc.
Chủ yếu là khám khi bệnh
nhân có bìu to, sờ nắn là động tác chủ yếu bằng ngón tay cái đối chiếu với 3 –
4 ngón tay của một bàn tay hay hai bàn tay cầm cả hai bên.
Bìu và ống bẹn có liên
quan về phôi thai, giải phẫu nên khi có dấu hiệu bệnh lý phát hiện thấy ở bìu
bao giờ cũng phải chú ý đến vùng bẹn.
Tìm các dấu hiệu:
Dấu hiệu kẹp màng tinh
hoàn Sebileau: bình thường lớp da và lớp màng tinh hoàn có thể kẹp được giữa
hai ngón tay. Khi có nước trong màng tinh hoàn ta không thể làm được dấu hiệu
này và khi tinh hoàn quá to ta cũng không thể làm được dấu hiệu này.
Sờ mào tinh hoàn và tinh
hoàn( Dấu hiệu Chevassu): bình thường sờ được mào tinh hoàn như cái mũ chụp lên
tinh hoàn. Mào tinh hoàn mềm nhẵn không đau, tinh hoàn mềm hình bầu dục nhẵn
không đau.
Sờ thừng tinh: như một
sợi dây chắc chắn nhẵn lăn dưới tay và các mạch máu tĩnh mạch cũng mềm dễ bóp
dẹt.
Lỗ bẹn nông ngoài gai
xương mu 0,5 cm lỗ bình thường không lọt đầu ngón tay trỏ. Lỗ bẹn rộng có thể
ruột chui xuống bìu. Ngoài ra còn có các phương pháp khác bổ sung xác định
thương tổn.
Soi ánh sáng: dùng đèn
pin chiếu sáng ánh sáng xuyên qua hay không chứng tỏ bìu chứa tổ chức đặc hay
lỏng.
Chọc dò nước màng tinh
hoàn để xác định nước do viêm lao hay do ung thư.
Sinh thiết: khi khám moọt
bệnh nhân có bìu to trong một số trường hợp cần phân biệt:
Bìu to do ứ nước màng
tinh hoàn, nang lớn ở mào tinh hoàn thừng tinh, do thoát vị bẹn.
Khối u tinh hoàn, mào
tinh hoàn.
Giãn tĩnh mạch tinh.
Bìu to với các bệnh gặp
trong cấp cứu ngoại khoa:
Thoát vị bẹn ngẹt
Xoắn tinh hoàn thường gặp
ở trẻ em, thiếu niên.
Dập tinh hoàn sau trong
chấn thương vùng bẹn bìu.
Tinh hoàn lạc chỗ.
Khám dương vật:
Khám da bao quy đầu - hẹp
bao quy đầu (phymosis, paraphymosis)
Khám lỗ niệu đạo – bênh
lỗ đái lệch thấp (hypospadias, epispadias)
Các bệnh lý gây cong vẹo
dương vật, cương cứng dương vật, chấn thương dương vât.
CÁC PHƯƠNG TIỆN CHẨN
ĐOÁN:
Xét nghiệm sinh học:
Nghiên cứu chức năng
thân:
Là cần thiết trong ngoại
khoa tiết niệu, đặc biệt trong những trường hợp cắt thận.
Đánh giá tổng thể:
Định lượng creatinin máu
là xét nghiệm rất có giá trị: bình thường < 100 mmol/l cho biết rất chính
xác chức năng thận, định lượng ure máu bt < 8 mmol/l
Nghiên cứu độ thanh thải
ure và creatinin nội sinh cho phép đánh giá chức năng thận rất chính xác.
Trong trường hợp suy thận
cần thiết làm điện giải đồ bao gồm: Na+, K+, Ca++,
Cl-, dự trữ kiềm, pH máu.
Đánh giá chức năng thận
từng bên:
Đôi khi cần thiết phải
đánh giá chức năng từng thận riêng biệt.
Độ thanh thải creatinin
nội sinh ở người lớn trưởng thành là 60 ml/phút, đối với mỗi thận chỉ số này
giảm dần theo tuổi.
Suy thận khi độ thanh
thải này < 20 ml/mn, và < 10 ml/mn, cần thiết phải lọc máu nhân tạo. Để
đánh giá chức năng từng thận cần phải luồn sonde lên từng niệu quản để lấy nước
tiểu và nguy cơ gây nhiễm khuẩn rất lớn nên xét nghiệm này ít được sử dụng.
Dựa vào chụp niệu đồ tĩnh
mạch. Qua hình ảnh thuốc cản quang: đậm độ thuốc tập trung ở từng thận, chiều
dày nhu mô thận người ta xác định một cách tương đối chức năng từng thận.
Tuy nhiên để xác định một
cách chính xác hơn nữa chức năng từng thận cần chụp đồng vị phóng xạ.
Xét nghiệm vi khuẩn nước
tiểu:
Để xác định có nhiễm
khuẩn nước tiểu số lượng VK > 100.000/ ml và bạch cầu nước tiểu tăng cao, có
bạch cầu thoái hoá.
Cấy VK nước tiểu làm KSĐ
Một số điều chú ý:
Khi xét nghiệm thấy bạch
cầu nước tiểu và cấy nước tiểu âm tính có thể do các lý do: hoặc là trước khi
cấy nước tiểu đã dùng KS hoặc là một số loại vi khuẩn phải nhuộm hoặc chuẩn bị
một cách đặc biệt để nhận biết chúng. Trước những trường hợp đái mủ, cấy nước
tiểu nhiều lần âm tính cần phải tìm vi khuẩn lao.
Một số xét nghiệm vi
khuẩn khác:
Cấy mủ niệu đạo, soi
tươi.
Phân tích nước tiểu đầu
bãi.
Xét nghiệm nước tiểu sau
khi massage TLT.
Cấy tinh dịch.
Một số xét nghiệm sinh học
khác:
Định lượng hormone sinh
dục - tuyến thượng thận.
Định lượng Marqueurs
tumoraux.
Các xét nghiệm chẩn đoán
hình ảnh:
Siêu âm:
Là một xét nghiệm không
nguy hiểm, không đau và rất giá trị trong thăm dò hình thái hệ tiết niệu. Luôn
luôn là xét nghiệm đầu tiên được lựa chọn trong thăm dò, cho nhiều thông tin
cần thiết nhất là về hình thái học.
Ở phần cao: cho biết hình
thái, độ dày mỏng của nhu mô thận và đài thận: bể thận, niệu quản.
Ở phần thấp: bàng quang -
tiền liệt tuyến, hai túi tinh – tinh hoàn.
Chụp hệ tiết niệu không
chuẩn bị:
Đòi hỏi thụt đại tràng
trước khi chụp cần 2 phim: 1 thẳng, 1 nghiêng. Nó cho biết các thông tin:
Bóng thận: bình thường
hoặc bị biến dạng.
Bóng cơ đái chậu
Hình cản quang của sỏi
hoặc ở thận, hoặc ở đường tiết niệu.
Tình trạng các lưới
xương: hình ảnh tăng đậm độ hoặc hình tiêu xương.
Chụp niệu đồ tĩnh mạch
(UIV):
Cho đến nay UIV vẫn là
phương pháp đơn giản và cơ bản để đánh giá chức năng bài tiết của thận, hình
thể bình thường hoặc bệnh lý của các đài thận, bể thận, niệu quản, bàng quang,
niệu đạo.
Kỹ thuật tiến hành:
Cho bệnh nhân nhịn đói
trong 12 giờ.
Thụt đại tràng trước khi
tiến hành.
Cho bệnh nhân đi đái hoặc
thông tiểu trước.
Chống chỉ định với những
trường hợp ure máu cao > 0,8 g/l và có dị ứng với iod.
Tiêm thuốc cản quang vào
đường tĩnh mạch số lượng tỷ lệ với trọng lượng bệnh nhân.
Chụp 1 phim rất sớm: 15 –
20 s sau khi tiêm thuốc cho phép thấy được hình ảnh động mạch thận.
1 phim sau 2 – 3 phút cho
phép thấy được hình ảnh của nhu mô thận và qua đó đánh giá chức năng 2 thận.
Các phim từ 3 phút trở đi
cho phép thấy được đài bể thận, niệu quản.
Có thể dùng 2 quả bóng ép
vào niệu quản ở đoạn khớp cùng chậu để giữ thuốc cản quang ở đài bể thận cho
phép nhìn được rõ hơn.
Chụp phim toàn thể niệu
quản, đòi hỏi phải chụp nhiều phim vì niệu quản rất ít khi nhìn rõ trên 1 phim.
UIV sẽ được kết thức bởi
phim chụp phần thấp của đường bài tiết và những phim ở thì bệnh nhân đái.
Trong những trường hợp
đặc biệt thận ngấm thuốc chậm có thể chụp những phim ở thì muộn sau 60’, 90’,
120’… hoặc chụp UIV nhỏ giọt tĩnh mạch liều thuốc tăng gấp 2 – 3 lần bình
thường.
Chụp niệu quản bể thận
ngược dòng (UPR):
Được tiến hành bằng soi
bàng quang, tìm lỗ niệu quản bên định chụp luồn ống thông lên niệu quản, bơm
thuốc 12 – 15 ml tốt nhất là bơm theo dõi trên màn huỳnh quang. Chụp những phim
ở những hình ảnh cần thiết.
Chụp UPR là thủ thuật dễ
gây nhiễm trùng, đặc biệt trong những trường hợp tắc nghẽn. Do vậy đòi hỏi phải
tuyệt đối vô khuẩn.
Chỉ định trong những
trường hợp:
Khi chụp UIV thận không ngấm
thuốc hoặc hình ảnh bể thận, niệu quản không rõ.
Cần tìm các lỗ rò lưu
thông từ thận sang đường bạch huyết.
Chụp bể thận niệu quản
xuôi dòng(UPD):
Được chỉ định trong những
trường hợp tắc nghẽn niệu quản. Thận được dẫn lưu bằng ống thông.
Chụp bàng quang ngược
dòng:
Đặt ống thông vào bàng
quang, bơm thuốc cản quang qua ống thông với khối lượng vừa đủ.
Chụp niệu đạo ngược dòng:
Bơm thuốc cản quang ngược
dòng từ miệng sáo dương vật chụp phim ở hai tư thế thẳng và nghiệng.
Chỉ định phát hiện các
bệnh lý:
Chít hẹp niệu đạo.
Rò niệu đạo TSM hoặc rò
niệu đạo - trực tràng, túi thừa niệu đạo.
Hình ảnh biến dạng niệu
đạo trong bệnh lý khối u TCT.
Chụp cắt lớp vi tính (CT
scanner):
Giữ vị trí rất quan trọng
trong thăm dò đường tiết niệu:
Ở tầng thắt lưng:
Cho phép phân tích một
cách rõ nét các khối u thận, phân biệt nang thận và cho các thông tin để chẩn
đoán u ác tính ở thận.
Cho hình ảnh xâm lấn tại
chỗ của u ác tính:
Cho phép nhìn rõ các sỏi
acid uric không cản quang.
Phân biệt giữa cục huyết
khối với u đường bài tiết.
Ở vùng tiểu khung: cho
những hình ảnh rất rõ u bàng quang và TCT tuy nhiên những hình ảnh xâm lấn tại
chỗ và đặc biệt là các hạch thì không chắc chắn.
Chụp hệ bạch mạch:
Cho phép thấy được các
hạch vùng chậu và vùng bụng.
Chỉ định để tìm các hạch
bệnh lý trong các trường hợp ung thư.
Tuy nhiên xét nghiệm này
có nhiều trở ngại: rất khó thực hiện, gây đau và đọc kết quả cũng không dẽ
dàng, nhất là ở những bệnh nhân có tuổi, có nguy cơ tai biến về hô hấp tuần
hoàn.
Chụp đồng vị phóng xạ:
Chụp đồng vị phóng xạ
thận để biết chức năng từng thận.
Chụp đồng vị phóng xạ hệ
thống xương thường được sử dụng để phát hiện các ổ di căn ung thư vào xương,
đặc biệt là ung thu TCT.
Chụp cộng hưởng từ hạt
nhân (MRI):
Ít được sủ dụng trong
tiết niệu vì nó cho những hình ảnh tương tự như chụp scanner.
Chụp động mạch:
Là một xét nghiệm cho kết
quả rất tốt.
Tuy nhiên có nhiều hạn
chế: đòi hỏi phải chụp nhiều phim, tiêm một số lượng lớn thuốc cản quang. Đặc
biệt. là phải chọc vào thân một động mạch lớn, nó sẽ gây đau và nguy hiểm cho
bệnh nhân.
Chỉ định chủ yếu là : u
thận và ung thư.
Chụp tĩnh mạch chủ:
Được chỉ định:
Phát hiện cục máu đông
trong tĩnh mạch thận
Nghiên cứu sự liên quan
giữa u thận và tĩnh mạch chủ dưới. Phát hiện thâm nhiễm ung thư vào tĩnh mạch
chủ.
Các dụng cụ và xét nghiệm
nội soi:
Chỉ định: có rất nhiều
loại ống thông niệu đạo và niệu quản được sủ dụng trong chẩn đoán và điều trị
các bệnh lý đường tiết niệu.
Chẩn đoán:
Ống thông đặt vào bàng
quang để lấy nước tiểu làm xét nghiệm, đo lượng nước tiểu cặn trong bàng quang,
bơm thuốc cản quang vào niệu đạo, bàng quang để chụp…
Điều trị:
Đặt thông tiểu điều trị
bí đái, bàng quang thần kinh…
Đặt thông niệu quản trong
một số bệnh tắc nghẽn niệu quản,
Các loại ống thông:
Kích thước đường kính ống
thông thường được đánh số theo chỉ số French (Fr). Ống thông số 3 Fr có đường
kính là 1 mm, 1 Fr = 0,33 mm đường kính. Cỡ ống thông trung bình để đặt cho
người lớn trưởng thành là từ 18 – 22 Fr.
Các xét nghiệm:
Soi niệu đạo – bàng
quang:
Ở phụ nữ ít đau hơn ở nam
giới. Đòi hỏi hoặc gây tê tại chỗ hoặc gây mê toàn thân.
Cho phép nhìn được niêm
mạc niệu đạo và bàng quang, cho phép chụp UPR.
Nguy hiểm: dễ gây nhiễm
khuẩn, chấn thương niệu đạo.
Soi niệu quản: Cho phep
phát hiện các u trong lòng niệu quản và điều trị tắc sỏi nội soi niệu quản.
Soi bể thận qua da.
Doppler
Giải phẫu bệnh học và tế
bào học: thường được sử dụng trong chẩn đoán ung thư bàng quang và TCT
Thăm dò niệu động học và
đọng học bàng quang:
Cho phép đo áp lục trong
bàng quang và niệu đạo khi làm căng bàng quang và khi đi đái.
Ghi nhận sự thay đổi áp
lực khi dùng các loại thuốc khác nhau.
Cho phép nghiên cứu hoạt
động của hệ thống cơ thắt và tìm hiểu cơ chế hoạt động của nó