Hiện nay test HP được thực hiện tại các cơ sở y tế ngày càng phổ biến. Khi có kết quả dương tính bệnh nhân thường rất lo lắng, một số bác sĩ cũng chưa lắm hết các chỉ định điều trị khi nhiễm HP dẫn đến điều trị tràn lan, tốn kém gây hoang mang cho bệnh nhân. Vậy khi nào cần điều trị HP?
Có phải cứ xét nghiệm HP dương tính là cần phải diệt không?
1. Vi khuẩn HP (Helicobacter Pylori)
1.1. Đặc điểm của vi khuẩn HP
Vi khuẩn Helicobacter pylori (H.P) là một xoắn
khuẩn hình que Gram âm, ái khí, có chùm lông ở một đầu. Vi khuẩn có kích thước
ngắn từ 0,2 – 0,5µm, có 4 - 6 lông, di động được nhờ chùm lông, có các enzym
như enzym urease, oxidase, catalase, mucolytic, protease, lipase và
phospholipase. Vi khuẩn sống trong lòng dạ dày mà không phải trong niêm mạc,
tăng trưởng ở nhiệt độ 30-40 độ, chịu được môi trường pH từ 5- 8,5 và sống ở
phần sâu của lớp nhầy bao phủ niêm mạc dạ dày, giữa lớp nhầy với bề mặt của lớp
tế bào biểu mô và ở các vùng nối giữa các tế bào này. Vi khuẩn HP tồn tại được
trong môi trường acid dạ dày là nhờ lớp nhầy có tác dụng bảo vệ niêm mạc dạ dày
cũng như nhờ men urease tạo ra môi trường kiềm xung quanh vi khuẩn.
Hình 1. Vi khuẩn Helicobacter pylori (H.P).
Vi khuẩn H.P đã được hai nhà bác học người Úc
là Barry Marshall và Robin Warren tìm thấy ở trong dạ dày của người vào năm
1982. Hai nhà khoa học này đã được nhận giải nobel cho việc tìm thấy HP ở dạ
dày của người vào năm 2005.
Có hơn 50% dân số thế giới bị nhiễm HP. Ở các
nước đang phát triển có tần số nhiễm rất cao từ 50 -90% với lứa tuổi lớn hơn 20
và hầu hết trẻ em bị nhiễm ở độ tuổi từ 2 - 8. Ở Việt Nam có tỉ lệ nhiễm HP cao
vào khoảng hơn 70% ở người lớn. Trong khi ở các nước đã phát triển, tuổi bị
nhiễm thường lớn hơn 50, chiếm hơn 50% dân số. Tần suất này tăng thêm 10% mỗi
năm. Vi khuẩn HP được coi là một vi sinh vật bình thường trong hệ vi sinh vật
đường tiêu hóa của con người.
Vi khuẩn HP chính thức được công nhận là
nguyên nhân gây loét dạ dày, hành tá tràng và ung thư dạ dày. Tuy nhiên, trên
80% những người bị nhiễm HP trong dạ dày không có biểu hiện triệu chứng. Ung
thư dạ dày tùy thuộc vào chủng của HP và đáp ứng của kí chủ. Các chủng HP có
độc lực khác nhau, không phải tất cả vi khuẩn này đều có cấu trúc di truyền
giống nhau. Loại vi khuẩn HP gây viêm loét, ung thư dạ dày có chứa 1 gen được
đặt tên là CagA (Cytotoxin-associated gene A). Gen CagA hiện diện trong 60% HP
gây bệnh viêm dạ dày.
1.2. Vai trò gây bệnh của vi khuẩn HP
Vi khuẩn HP có một vai trò nào đó trong cuộc
sống bình thường của con người, bằng chứng là sau khi điều trị diệt HP làm tăng
nồng độ hormon Grehnin, đây là một hormon gây thèm ăn và ăn ngon miệng, vì vậy
có thể dễ làm tăng cân và béo phì. Ngoài ra một số nghiên cứu thấy có tăng tỉ
lệ bệnh nhân bị đái tháo đường, hen phế quản, bị viêm ruột, bao gồm cả bệnh
Crohn (viêm loét đại tràng chảy máu).
Trên 80 % người nhiễm vi khuẩn HP không có
triệu chứng. Chỉ có khoảng10 - 20% người nhiễm HP có khả năng bị loét dạ dày tá
tràng và 1 - 2% có khả năng bị ung thư dạ dày. Vi khuẩn HP có thể gây ra các
bệnh sau:
-Viêm cấp tính niêm mạc dạ dày: Phần lớn bệnh
nhân khi mới nhiễm HP không có triệu chứng, chỉ một số ít người trong giai đoạn
nhiễm cấp tính có biểu hiện như: đầy bụng, buồn nôn, chán ăn. Nội soi dạ dày
thấy có thể viêm một phần hoặc toàn bộ niêm mạc dạ dày. Cũng có khi tự khỏi
hoặc chuyển sang viêm mạn tính niêm mạc dạ dày.
- Viêm mạn tính niêm mạc dạ dày: Sau giai đoạn
viêm cấp có triệu chứng hoặc không có triệu chứng, lâu dài sẽ gây viêm mạn
tính. Khi bị viêm mạn tính có thể xảy ra một trong 2 tình huống sau: viêm teo
niêm mạc dạ dày chủ yếu tại vùng hang vị dạ dày, trường hợp này thường bài tiết
acid tại dạ dày bình thường hoặc tăng, dẫn tới hay bị loét hành tá tràng. Khả
năng thứ 2 là viêm teo niêm mạc từ hang vị sẽ lan lên thân vị và nếu viêm nặng
có thể viêm teo toàn bộ niêm mạc dạ dày, dẫn tới giảm tiết acid của dạ dày gây
ra loét dạ dày và ung thư dạ dày. Tuy nhiên, viêm mạn tính niêm mạc dạ dày
không chỉ do HP gây ra mà còn gặp do các nguyên nhân khác như viêm niêm mạc dạ
dày tự miễn.
- Loét dạ dày tá tràng: Gọi là loét khi ổ tổn
thương có kích thước từ 0,5cm trở lên. Loét dạ dày thường gặp ở người trên 40
tuổi, vị trí ổ loét hay gặp ở bờ cong nhỏ, đặc biệt là vùng nối giữa thân vị và
hang vị. Loét tá tràng hay gặp ở độ tuổi từ 20-50, vị trí ổ loét thường gặp ở
hành tá tràng. Điều trị diệt HP giúp ngăn ngừa được loét dạ dày tá tràng tái
phát và chảy máu tái phát
- Ung thư dạ dày: Năm 1994 Tổ chức Y tế Thế
giới chính thức xếp vi khuẩn H.P là nguyên nhân gây ung thư dạ dày. Vi khuẩn HP
không trực tiếp gây ung thư dạ dày mà do vi khuẩn H.P gây viêm mạn tính niêm
mạc dạ dày.Viêm mạn tính lâu ngày làm giảm và mất các tuyến bình thường của dạ
dày, thay thế vào đó là tổ chức xơ hay còn gọi là viêm teo, niêm mạc bình
thường được thay thế bằng biểu mô niêm mạc ruột hay còn gọi là dị sản ruột.Tình
trạng viêm teo niêm mạc dạ dày và dị sản ruột gặp khoảng 50% số trường hợp bị
nhiễm HP. Chính tình trạng viêm teo mạn tính nặng và dị sản ruột dẫn tới ung
thư dạ dày. Vì vậy, điều trị diệt vi khuẩn HP làm giảm nguy cơ ung thư dạ dày
nhưng không làm mất hoàn toàn nguy cơ ung thư dạ dày. Nếu một người nhiễm HP có
viêm teo hoặc dị sản ruột mà vi khuẩn HP đã âm tính thì vẫn có thể bị ung thư
dạ dày. Mức độ viêm teo niêm mạc dạ dày và dị sản ruột phụ thuộc vào quá trình
viêm hoạt động nhiều hay ít, mức độ viêm phụ thuộc vào bản thân người bệnh và
độc lực của vi khuẩn HP. Điều này lý giải tại sao không phải ai bị nhiễm vi
khuẩn HP cũng bị ung thư dạ dày.
- U lympho B niêm mạc dạ dày (MALT): U
lymphoma MALT dạ dày là loại u lymphoma non-Hodgkin có đặc tính sao chép và
tăng sinh chậm các tế bào B, một loại tế bào miễn dịch trong lớp lót dạ dày. Nhiễm
HP có thể gây ra ung thư lympho bào B tại biểu mô niêm mạc dạ dày. Khoảng 60 -
80% ung thư loại này sẽ thoái triển và khỏi hoàn toàn sau diệt HP.
- Chứng khó tiêu chức năng: là một bệnh do
nhiều nguyên nhân gây ra với biểu hiện đau vùng thượng vị, có thể có nóng rát
vùng thượng vị, ăn nhanh no, đầy bụng vùng thượng vị sau khi ăn làm cho bệnh
nhân có cảm giác nặng bụng hoặc ấm ách sau ăn, các triệu chứng này giảm đi sau
khi ăn khoảng 30 phút đến 2 giờ. Một số bệnh nhân bị chứng khó tiêu chức năng
có nhiễm vi khuẩn HP, các triệu chứng có thể giảm sau khi diệt HP, tuy nhiên tỉ
lệ giảm triệu chứng này không cao.
- Một số bệnh ngoài đường tiêu hóa: nhiễm vi
khuẩn HP cũng làm tăng xuất hiện một bệnh như: giảm tiểu cầu chưa rõ nguyên
nhân, bệnh lý mạch vành, đau nửa đầu…
1.3. Đường lây của vi khuẩn HP
Vi khuẩn HP lây truyền từ người này qua người
khác qua đường tiêu hóa: lây trực tiếp qua miệng- miệng, lây truyền qua
phân, do thức ăn hoặc nước uống bị nhiễm bẩn. Bằng chứng là đã phát hiện được
vi khuẩn HP có trong phân, nước bọt và trong mảng bám răng của người.
Ở Việt Nam theo những nghiên cứu từ
2005, tỉ lệ tái xuất hiện HP là rất cao, trung bình 11 tháng sau điều trị HP về
âm tính thì HP lại tái xuất hiện trong dạ dày là 23,5%, trong đó tái nhiễm là
9,7% và tái phát là 13,8%. Tỉ lệ tái xuất hiện của HP trong dạ dày thấp nhất là
ở Phần Lan với 0,2%/năm, Nhật Bản là 0,2- 2%/năm, tại Mỹ nói chung khoảng dưới
2% mỗi năm.
1.4. Kháng kháng sinh của HP
Vào những năm 1990 đến năm 2000 vi khuẩn HP rất
nhậy cảm với kháng sinh nên tỉ lệ diệt trừ HP thành công rất cao, với chỉ 2/3
kháng sinh như: Amocixillin, Clarithromycin và Metronidazol có thể cho hiệu quả
diệt trên 90% thậm chí trên 95% chỉ với 7 ngày điều trị. Ngày nay, tại Việt Nam
HP kháng kháng sinh rất cao: trung bình amocixillin 24,9%, Clarithromycin 34,1%
(có nghiên cứu là 85,5%), metronidazole 69,4% (có nghiên cứu là 95,5%),
levofloxacin 27,9%, tetraxycline17,9% và đồng thời kháng nhiều loại kháng sinh
trung bình là 47,4%.
2. Các phương pháp xét nghiệm phát
hiện nhiễm vi khuẩn HP trong dạ dày
2.1 Các phương pháp qua nội soi dạ dày
- Làm test nhanh urease:
Test này xác định hoạt độ enzym urease của HP
bằng việc đặt mẫu mô dạ dày vào môi trường lỏng (test maison, CU test) hoặc bán
đặc (CLOtest, HUT test) hoặc trên một cái màng gọi là Pyloritek có chứa urea và
một chất chỉ thị màu theo pH. Nguyên tắc của thử nghiệm là nhằm phát hiện enzym
urease của HP. Hầu như HP là loại vi khuẩn duy nhất trong dạ dày tiết enzym
urease với khối lượng lớn (ngoại trừ một số rất ít bệnh nhân bị nhiễm
Helicobacter helmanii). Enzym urase của HP có trong mẫu mô dạ dày sẽ làm biến
đổi urease thành amoniac (NH3), NH3 làm môi trường
thuốc thử có pH kiềm, vì vậy làm thay đổi màu của chất chỉ thị và theo phản ứng
sau:
Urea + H2O => CO2 +
NH3.
NH3 có pH kiềm làm đổi màu chỉ
thị từ vàng sang đỏ.
Hình 2. Urease test.
Ở Việt Nam thường sử dụng CLOtest. CLO test là
viết tắt của chữ Campylobacter Like Organism test. CLOtest sử dụng mẫu thử là
hổn hợp gồm: agar gel có chứa urea, chất chỉ thị đỏ phenol, chất kìm hãm vi
khuẩn. Mẫu sinh thiết niêm mạc dạ dày lấy trong nội soi được vùi vào đó. Thử
nghiệm dương tính khi mẫu thử CLOtest đổi màu từ vàng sang màu đỏ tía. CLOtest
có thể đọc kết quả sau 5 phút, 20 phút, 1 giờ, 3 giờ,và 24 giờ. Nếu chỉ đọc kết
quả trong một giờ, độ nhạy của thử nghiệm sẽ giảm xuống vì phụ thuộc vào lượng
enzym urease hoạt động cũng như số lượng vi khuẩn. Ở một số trường hợp, kết quả
dương tính chỉ sau vài phút, nhưng khi mật độ vi khuẩn thấp kết quả có thể
dương tính sau nhiều giờ liền, thậm chí âm tính giả có thể xảy ra. Các trường
hợp âm tính giả có thể do: mật độ vi khuẩn thấp, đang xuất huyết tiêu hóa, teo
niêm mac dạ dày, u MALT, mới dùng kháng sinh hoặc thuốc ức chế bơm proton. Các
trường hợp dương tính giả gặp trong nhiễm H.heilmanii, vi khuẩn này cũng sinh
ra men urease và thường gặp trong dạ dày của chó, mèo, lợn. Khi độ toan dịch vị
thấp, dương tính giả còn có thể gặp ở những trường hợp nhiễm vi khuẩn khác cũng
sinh ra men urease như Enterobacter và Pseudomonas.sp.
- Nuôi cấy tìm vi khuẩn: Sinh thiết rồi cấy mẫu mô tìm vi khuẩn
HP.
Phương pháp này xác định chính xác nhiễm HP về
mặt phương diện vi khuẩn học. Nuôi cấy là thử nghiệm đặc hiệu nhất và có thể
nói đó là tiêu chuẩn vàng có độ đăc hiệu 100%. Nuôi cấy còn cho biết mật độ của
HP, cấu trúc gen của các chủng HP khác nhau. Nuôi cấy còn cho biết dạng hình
cầu của HP là hình thái thoái hóa của vi khuẩn,
- Lấy mẫu mô niêm mạc dạ dày đem nhuộm Gram: để
tìm sự có mặt của vi khuẩn. Tuy nhiên, độ nhạy không cao.
2.2. Các phương pháp không cần nội soi dạ
dày
- Test hơi thở C13, C14 (Urease Breath Test=UBT):
Nghiệm pháp thở UBT được Graham mô tả đầu tiên
vào năm 1987 và tiếp theo vào năm 1988 Marshall và Surveyor mô tả nghiệm pháp
thở 14C. Cả hai nghiệm pháp này cho đến nay được xem là tiêu
chuẩn vàng và đã trở thành một thử nghiệm phổ biến không xâm hại trong chẩn
đoán và đánh giá kết quả tiệt trừ HP. Kết quả cả hai thử nghiệm thở 13C
và 14C đều giống nhau và đều chính xác duy khác nhau ở
chổ 13C là chất không gây phóng xạ còn 14C là
chất có hoạt tính phóng xạ. Do 14C có hoạt tính phóng xạ nên
không được dùng cho trẻ em và phụ nữ mang thai còn 13C thì dùng
được cho 2 đối tượng nêu trên. Tuy nhiên, việc sử dụng test này có giá thành
cao và máy khá đắt.
Nguyên tắc: Bệnh nhân được cho uống urea được
đánh dấu 13C hoặc 14C. Nếu dùng 13C
thì không cần kèm điều kiện chăm sóc, theo dõi và chuyên chở đặc biệt,
nên 13C UBT được dùng rộng rãi hơn. Sau khi uống, enzym urease
từ vi khuẩn sẽ tác động lên urea được đánh dấu và giải phóng 13CO2..
Chất này đi vào máu và thải trừ qua phổi. Việc phát hiện trong hơi thở chất
đồng vị được đánh dấu và hoặc là tỉ lệ 13C/12C được
đo bằng sắc ký hơi và quang phổ kế khối hoặc một hệ thống khác như quang phổ
laser và hoặc quang phổ hồng ngoại. Nghiệm pháp được coi là dương tính khi có
ngưỡng 3 delta đối với 1000. Để tránh kết quả âm tính giả nên cho bệnh nhân
ngưng thuốc ức chế bơm proton ít nhất 2 tuần và thuốc kháng sinh ít nhất 4
tuần. Test hơi thở có độ chính xác hơn 95% và thường được dùng để đánh giá kết
quả điều trị tiệt trừ HP.
Hình 3. Nguyên lý test hơi thở.
- Xét nghiệm tìm kháng thể IgG trong huyết thanh:
Chẩn đoán huyết thanh bằng phương pháp ELISA
(Enzyme Linked Immuno Sorbent Assay) để phát hiện kháng thể IgG kháng HP. Đây
là một xét nghiệm ít tốn kém và thích hợp cho nghiên cứu dịch tể học với độ
nhạy trên 90%.
Test nhanh bằng huyết thanh chủ yếu phục vụ
cho các bác sĩ lâm sàng thực hành tại các cơ sở y tế, ít khi được áp dụng trong
các nghiên cứu. Về nguyên tắc, huyết thanh hoặc máu của bệnh nhân được đặt trên
một giải sắc ký có chứa sẵn những kháng nguyên đặc hiệu, phản ứng ngưng kết sẽ
xảy ra trong vòng 2 - 3 phút và cho kết quả chẩn đoán dương tính.
Tìm kháng thể kháng HP trong nước tiểu: Năm
1998, các nhà khoa học Nhật Bản tìm thấy kháng thể IgG kháng HP trong nước tiểu
của bệnh nhân. Từ đó mở ra khả năng một phương pháp mới để chẩn đoán nhiễm HP.
- Xét nghiệm tìm kháng nguyên vi khuẩn HP
trong phân HpSA:
Đây là một test mới dùng kỹ thuật ELISA có tên
là Premier platinum HpSA để phát hiện kháng nguyên của HP trong phân. Xét
nghiệm này ngoài việc giúp chẩn đoán nhiễm HP, nó còn giúp theo dõi điều trị
tiệt trừ HP với độ nhạy và độ đặc hiệu cao. Đối với trẻ em, thử nghiệm HpSA rất
có ích trong nghiên cứu dịch tễ học vì các thử nghiệm xâm lấn qua nội soi khó
thực hiện. Hơn nữa, đối với trẻ em mới sinh ra và trong những năm đầu đời, chẩn
đoán huyết thanh cũng khó đánh giá do còn kháng thể từ mẹ truyền sang con vẫn
còn tồn tại.
- Một số phương pháp xét nghiệm khác:
+ Xác định acid nhân (AND) của vi khuẩn: Phản
ứng khuếch đại gen cho phép phát hiện chuỗi ADN đặc hiệu của HP trong mẫu sinh
thiết dạ dày, trong dịch dạ dày, trong chất nhày hoặc trong nước bọt, trong
mảng bám răng, trong phân. Phương pháp này có thể phát hiện mật độ vi khuẩn
thấp < 106 vi khuẩn trong 1 gam phân. Tuy nhiên không cho
phép xác định sự hiện diện của vi khuẩn sống.
+ Phản ứng chuỗi Polymerase PCR (Polymerase
Chained Reaction). Nguyên tắc PCR là một thử nghiệm cho phép khuếch đại chọn
lọc một mẫu ADN đích thành một tỷ bản sao để sau đó có thể phát hiện được. Mẫu
bệnh phẩm có thể lấy từ mẫu sinh thiết dạ dày, dịch hút dạ dày, mảng cao răng,
nước bọt hay từ phân được phân tích để lấy ADN đích, tiếp theo là bước khuếch
đại từ những primer mồi hoặc là những ADN đơn được bắt cặp vào đoạn khởi đầu
hay đoạn cuối của chuỗi ADN đích với sự tham gia xúc tác phản ứng tổng hợp của
men Taq polymerase (là men chịu được nhiệt độ trích từ vi khuẩn Thermus
aquaticus). Sự khuếch đại của thử nghiệm PCR dựa vào 30 - 40 chu kỳ nhiệt theo
3 bước: giai đoạn làm biến tính, giai đoạn bắt cặp, giai đoạn kéo dài. Cuối
cùng, những sản phẩm khuếch đại trên 109 bản sao từ ADN đích
ban đầu sẽ được phát hiện bằng phương pháp điện di.
+ Test huyết thanh phát hiện kháng thể kháng
CagA: Ở phương Tây, những chủng HP biểu hiện với CagA (+) có liên quan đến bệnh
sinh loét dạ dày tá tràng. Thử nghiệm ELISA phát hiện những 25 protein đặc hiệu
của CagA hoặc là kháng thể kháng CagA. Tuy nhiên, ở phương Đông và Nam Mỹ, CagA
(+) thấy ở hầu hết các đối tượng và không rõ sự khác biệt trong khả năng gây
bệnh.
+ Dùng PCR chẩn đoán HP trong phân: Trên thực
nghiệm người ta đã dùng kỹ thuật PCR để tìm HP trong phân. Tuy nhiên, thử
nghiệm này sẽ khó thực hiện nếu bệnh nhân có chế độ ăn nhiều chất xơ. Hiện nay,
vẫn chưa có phương pháp nào đơn giản và hữu hiệu để giúp loại bỏ chất xơ này,
vì vậy thử nghiệm này vẫn chưa được áp dụng rộng rãi.
Tổ chức Tiêu hóa Thế giới khuyến cáo trong
thực tiễn khám và điều trị HP nên dùng hai phương pháp: test nhanh urease khi
nội soi dạ dày và test thở C13 hoặc C14. Các phương pháp khác chủ yếu làm với
mục đích nghiên cứu dịch tễ hoặc nghiên cứu sâu. Sử dụng xét nghiệm máu tìm
kháng thể IgG trong huyết thanh để phát hiện nhiễm HP là không chính xác, gây
lãng phí. Vì nếu xét nhiệm cho thấy có khảng thể trong máu (dương tính), thì
chỉ biết bệnh nhân đã từng nhiễm HP chứ không chắc chắn hiện tại có nhiễm HP
hay không, và hơn nữa sau khi điều trị diệt hoàn toàn HP thì kháng thể IgG vẫn
còn tồn tại trong máu rất lâu nên không biết được bệnh nhân còn hay hết vi
khuẩn HP.
3. Chỉ định diệt HP
Vì có tới 80% dân số ở độ tuổi 40-50 nhiễm vi
khuẩn HP, nhưng chỉ có khoảng10 - 20% người nhiễm HP có khả năng bị loét dạ dày
tá tràng và 1 - 2% có khả năng bị ung thư dạ dày. Trong đó loét dạ dày tá tràng
và ung thư dạ dày không phải chỉ do HP gây ra mà còn có những nguyên nhân khác.
Hơn nữa tỉ lệ tái nhiễm và tái phát rất cao, trung bình 11 tháng sau điều trị
HP về âm tính thì HP lại tái xuất hiện trong dạ dày là 23,5%, trong đó tái
nhiễm là 9,7% và tái phát là 13,8%. Vì vậy không nhất thiết cứ nhiễm vi khuẩn
HP là phải diệt, vì để 100% dân số không nhiễm HP là không tưởng và việc sử
dụng kháng sinh diệt HP tràn lan gây ra tình trạng HP kháng kháng sinh cao.
Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới thì
những trường hợp có nhiễm HP dưới đây mới cần điều trị diệt:
- Loét dạ dày, có HP dương tính.
- Loét hành tá tràng, có HP dương tính.
- Chứng khó tiêu, có HP dương tính.: Đầy bụng
sau ăn, ăn nhanh no, nóng rát vùng thượng vị, đau vùng thượng vị.
- Thiếu máu thiếu sắt, có HP dương tính.
- Xuất huyết giảm tiểu cầu không không rõ căn
nguyên, có HP dương tính.
- Ung thư dạ dày muộn đã phẫu thuật, có HP
dương tính.
- Ung thư dạ dày sớm được cắt hớt (Endoscopic
Mucosal Resection- EMR) hoặc cắt tách niêm mạc qua nội soi (Endoscopic
Sumucosal Dissection- ESD), có HP dương tính.
- Những người có HP dương tính mà có bố, mẹ,
anh em ruột bị ung thư dạ dày.
- Khối u dạ dày: adenoma, polyp tăng sản, đã
cắt hớt niêm mạc, có HP dương tính.
- Viêm teo toàn bộ niêm mạc dạ dày, có HP
dương tính.
- Người làm ở môi trường có nguy cơ ung thư dạ
dày, có HP dương tính: khai thác than, quặng….
- Mặc dù sau khi đã được bác sỹ giải thích kỹ
mà người bệnh có HP dương tính quá lo lắng về nhiễm vi khuẩn HP thì có thể cân
nhắc diệt vi khuẩn HP.
Một số nước như Nhật Bản chủ trương cứ có HP
là điều trị diệt trừ vì tại đó tỉ lệ ung thư dạ dày rất cao và tỉ lệ nhiễm HP
khoảng 51 % dân số. Ngược lại, tại một số vùng của các nước phát triển ở vùng
bắc bán cầu như Greenland của Đan Mạch, Alaska của Mỹ, một số vùng của Canada
và Nga… nơi mà có tỉ lệ nhiễm H.P chiếm trên 60% dân số và có độ tuổi mắc giống
Việt Nam (bắt đầu nhiễm HP nhiều ở trẻ 4-5 tuổi và tỉ lệ này tăng rất nhanh đến
độ tuổi 15) mặc dù các vùng này là ở các nước đã phát triển, các chuyên gia đã
khuyến cáo không nên diệt HP cho tất cả mọi người, ngay cả những người có chứng
khó tiêu như cũng không đặt vấn đề diệt HP lên hàng đầu. .
Những người có biểu hiện chứng khó tiêu như
đầy bụng sau ăn, ăn nhanh no, nóng rát vùng thượng vị, đau vùng thượng vị có HP
dương tính lên tới trên 70%. Ngay cả khi bị chứng khó tiêu mà điều trị diệt HP
thì cứ 15 người điều trị chỉ có 1 người giảm triệu chứng, như vậy kết quả diệt
HP trong điều trị chứng khó tiêu cũng rất khiêm tốn. Vì vậy chỉ định diệt HP ở
người có chứng khó tiêu cũng cần cân nhắc thận trọng.
Ung thư dạ dày có hai vùng: ung thư vùng tâm
vị và đoạn cuối thực quản ít liên quan tới nhiễm HP, còn ung thư không phải tâm
vị (đây cũng là loại hay gặp hơn so với ung thư tâm vị) có liên quan đến nhiễm
HP. Mặc dù nước ta có tỉ lệ nhiễm vi khuẩn HP hàng đầu thế giới với trên 70%
dân số, nhưng tỉ lệ ung thư dạ dày chỉ là nước đứng thứ 10 trên thế giới. Ung
thư dạ dày là hậu quả của sự tác động giữa cơ thể con người và môi trường:
ngoài nhiễm vi khuẩn HP còn nhiều yếu tố khác tác động, nên không phải cứ ung
thư dạ dày là do HP.
Mặc dù, vi khuẩn HP là nguyên nhân chủ yếu gây
loét dạ dày tá tràng và ung thư dạ dày. Tuy nhiên, không phải tất cả những
người bị nhiễm vi khuẩn HP đều bị bệnh, vì thế cần điều trị diệt HP đúng chỉ
định để tránh không gây lãng phí, đồng thời không gây tình trạng kháng thuốc
kháng sinh chéo từ người này sang người khác dẫn tới tình trạng khi cần điều
trị diệt vi khuẩn HP thì kháng sinh không còn hiệu quả.
Tài liệu tham khảo:
Nguồn: PGS.TS. Hà Hoàng Kiệm, BVQY 103, HVQY.