Ung thư tế bào sáng của gan(Clear cell hepatocellular carcinoma)
1.
Mở
đầu
Ung thư biểu mô tế bào
gan (HCC-Hepatocellular Carcinoma) là một trong các loại ung thư gan nguyên
phát hay gặp nhất. Trong các khối u gan gồm nhiều loại khác nhau: lành tính, ác
tính, nguyên phát, thứ phát, trong đó ung thư tế bào gan (UTTBG) chiếm 90% tổng
số ung thư gan và là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ 3 trong tổng số nguyên
nhân tử vong do ung thư, hàng năm có khoảng 1 triệu trường hợp tử vong do UTTBG
Về mô bệnh học HCC bao
gồm 6 nhóm là : Fibrolamellar HCC; Sarcomatous HCC;
Scirrhous
HCC; Clear-cell
variant of HCC và HCC with lymphoid stroma. Trong đó Clear-cell variant of HCC
là thể khá hiếm gặp.
Ung thư tế bào sáng của
gan đã được mổ tả trong một số tài liệu đầu tiên có sự sai lệch về tên gọi như
u thượng thận và u gan thượng thận (hypernephroid tumors and hepatic hypernephroma
) (Swenson 1917; Williams 1924; Ramsay 1929). Khối u gan thượng thận (Hepatic
adrenal rest tumor) xuất hiện như một từ đồng nghĩa với ưng thư tế bào sáng gan
(clear cell HCC) trong một số báo cáo nhưng những khối tân sinh này dường như
có sự khác biệt về bản chất. Ung thư tế bào sáng của gan được phát hiện khi nhuộm
HE và được báo cáo lần đầu bởi Bonne năm 1937. Dạng tổn thương này sau đó đã xuất
hiện trong một số báo cáo(Berman 1951, 1958; Edmondson 1958) cho tới khi một loạt
13 ca bệnh đầu tiên được phân tích có hệ thống (bởi Buchanan và Huvos 1974),
trong đó chủ yếu bao gồm ung thư biểu mô tế bào sáng của dạ dày, ruột, tụy, gan
mật và thần kinh.
2.
Dịch
tễ
Ung thư tế bào sáng
nguyên phát của gan (PCCCL) là một loại
mô bệnh học đặc biệt của HCC với tần số khác nhau khoảng từ 0.4% - 37 % trong những nghiên cứu lớn. Sự
khác biệt này phần nhiều do sự khác nhau về tiêu chuẩn chẩn đoán.Một số tác giả
đã chẩn đoán ung thư tế bào nhỏ gan khi khối u chứa nhiều hơn 30% tế bào sáng
(Buchanan và Huvos 1974), trong khi những người khác coi ít hơn 30% tế bào sáng trong một khối u nhất định là đủ
cho chẩn đoán (Lai 1979).
Khối u hoàn toàn là tế
bào sáng rất hiếm gặp. Chẩn đoán cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn đánh giá thế nào
là một tế bào sáng. Vì thế ung thư tế bào sáng gan vẫn chưa có một định nghĩa
chẩn đoán chuẩn mực.
Trong một nghiên cứu loạt
ca bệnh, ít hơn 10% HCC là dạng tế bào sáng, nhưng những trường hợp này cho thấy
tuổi trung bình hơi lớn của bệnh nhân nam và tỷ lệ nam/ nữ là 1,6: 1, thấp hơn
tỷ lệ tỷ lệ trên toàn thế giới là 6,7: 1 đối với HCC thông thường (Buchanan và
Huvos 1974).
Trong số 118 bệnh nhân
xơ gan bị HCC, có 10 bệnh nhân (8,5%) đã được báo cáo là HCC tế bào sáng (Emileet
al. 2001). Trong một nghiên cứu loạt 43 ca bệnh nhân gần đây, tuổi trung bình mặc
bệnh là 53,6 tuổi và tỷ lệ nam / nữ là 2,9: 1. 30,2% các khối u ở bên trái,
60,5% ở thùy gan phải, và 9,3% 2 bên (Liu et al. 2008).
Trong một nghiên cứu
khám nghiệm tử thi của 287 HCC trong Hồng Kông, có tỷ lệ mắc bệnh 2 bên cao hơn
đáng kể ở HCC tế bào sáng (Ho và cộng sự 1981).
Trong một nghiên cứu
lâm sàng về HCC tế bào sáng, người ta thấy rằng nó thường được liên kết với giới
tính nữ, và tiền sử xơ gan là phổ biến hơn so với các ung thư biểu mô khác của gan
(90% so với 59%) (Yang et al. 1996). Tuy nhiên,khối u cũng đã được quan sát thấy
ở bệnh nhân không xơ gan gan (Mansinho và cộng sự 1993; Adamek và cộng sự 1998;
Takahashi và cộng sự. 2008; Clayton và cộng sự. 2012).
Trong một nghiên cứu
lâm sàng trên 43 bệnh nhân HCC tế bào sáng được điều trị bằng phẫu thuật cắt
gan (Liu et al. 2008), có tỷ lệ dương tính với virus viêm gan C và hình thành
khối u trong nhóm HCC tế bào sáng cao hơn so với các thể HCC thông thường khác.
Mặt khác, sự xâm lấn mạch
máu tỷ lệ thấp hơn đáng kể trong nhóm HCC tế bào sáng. Có rất ít mối liên quan
giữa HCC tế bào sáng với các khối u gan khác. Có trường hợp tổn thương có đã được
tìm thấy phát sinh 25 năm sau khi điều trị thành công u nguyên bào gan (Basile
et al. 2010).
3.
Đặc
điểm lâm sàng và hình ảnh của HCC tế bào sáng
Triệu chứng lâm sàng phổ
biến nhất của HCC tế bào sáng tương tự như HCC thông thường. HCC tế bào sáng
thường có mối liên quan với xơ gan. Tương tự như HCC thông thường, HCC tế bào sáng
có thể gặp tình trạng vỡ khối u, đây một biến chứng quan trọng gặp trong khoảng
15% trường hợp (Liu et al. 2011).
Một số rối loạn chuyển
hóa và nội tiết ít gặp hoặc cực kì hiếm gặp liên quan đến HCC tế bào sáng đã được
báo cáo. Hạ đường huyết được biết đến như là một triệu chứng
của hội chứng cận u ( paraneoplastic) của HCC. Trong số ít trường hợp HCC tế
bào sáng các khối u được cho là có liên quan đến hạ đường huyết và tăng
cholesterol máu (Sasaki et al. 1981; Antoniello et al. 1986). Một nghiên cứu
tương tự đề cập đến một HCC tế bào sáng ở một bệnh nhân cũng cho thấy tăng hồng
cầu ngoài tăng cholesterol máu và hạ đường huyết, sau đó đã gây tử vong đột ngột.(Ross
và Kurian 1985).
Khi chẩn đoán hình ảnh,
Khối u HCC tế bào sáng như bị bao quanh bởi một “ vỏ bọc giả” (Liu et al. 2011;
Wang et al. 2014). Trên hình ảnh CT trước tiêm cản quang , HCC tế bào sáng cho
thấy khối tăng tỉ trọng nhẹ với một viền giảm tỉ trọng, ở thì ở động mạch khối u
ngấm thuốc sớm. Kiểu ngấm thuốc HCC điển
hình gặp trong trong 72,2% HCC tế bào sáng (Liu et al. 2011). Ở pha cân bằng,
khối u giảm tỉ trọng với một viền tăng tỉ trọng.
Hình
1: CT HCC tế bào nhỏ
Trên hình ảnh MRI, các
khối u hơi giảm tín hiệu trên T1W (Liu et al. 2011). Trên tín hiệu T1W, các khối
u thường có viền giới hạn rõ đôi khi có một phần tăng tín hiệu bên trong u, và
khối u có thể xuất hiện như một tổn thương tăng tỉ trọng trên hình ảnh T2W (Takahashi
et al. 2008).
4.
Mô
bệnh học
Đại
thể
Nói chung, các HCC tế
bào sáng thường xuất hiện dưới dạng khối u đơn độc và đôi khi lớn. Trong nghiên
cứu Liu và cộng sự (2008), 74,4% của 43 khối u là tổn thương đơn độc và đường
kính của chúng dao động từ 2,1 đến 22,3 cm (trung vị, 6 cm) và chỉ có 37,2% có
đường kính từ 5 cm trở xuống. Trong nghiên cứu này, sự hình thành vỏ bọc (capsule)
là một đặc điểm nổi bật, được quan sát thấy ở 88,4% các khối u. Trong một
nghiên cứu trên 20 trường hợp, HCC tế bào sáng cũng thấy dễ hình thành vỏ bọc
giả (pseudocapsules ) hơn so với các HCC thông thường (75% so với 49,6%; Liu et
al. 2011). Mô hình tăng trưởng khối u cũng
chưa được làm rõ. Trong nghiên cứu của Buchanan và Huvos (1974; N = 13),
sự phát triển và thay thế nhu mô gan bằng xâm lấn của ung thư biểu mô là phát
hiện phù hợp nhất. Tuy nhiên, trên các khối u có xu hướng gần giống HCC thông
thường. Màu sắc u được mô tả là màu xám đến nhợt nhạt, màu vàng là trường hợp đặc
biệt (Buchanan và Huvos 1974).
Hình
2: Hình ảnh đai thể và vi thể HCC tế bào sáng
Vi
thể
Về mặt vi thể, kiểu
hình tế bào sáng là dấu hiệu gợi ý, mặc dù tỷ lệ của các tế bào sáng hay đổi giữa
các khối u khác nhau. Lai và cộng sự đề nghị chẩn đoán này khối tân sinh này (neoplasm ) ngay cả khi tỷ lệ của các tế
bào sáng là ít hơn 30% (Lai et al. 1979), Trong khi Buchanan và Huvos (1974) đề
xuất rằng một tỷ lệ hơn 30% là bắt buộc. Ngày nay, có sự đồng ý rằng chẩn đoán
cần tỷ lệ các tế bào sáng phải là 50% hoặc nhiều hơn (Kida et al. 2012). Trong
số 175 bệnh phẩm phẫu thuật HCC, 79 (45,1%) cho thấy số lượng tế bào sáng khác
nhau (Wang và Liu 1986).
Theo tỷ lệ và phân bố của
những tế bào này, các tác giả đã chia HCC tế bào sáng thành ba loại: (a) loại
phân tán (20,3%), (b) loại cục bộ (54,4%) và (c) loại khuếch tán (25,3%).
Các tế bào sáng có trong
HCC với độ biệt hóa khác nhau, không chỉ giới hạn trong các khối u có độ biệt
hóa tốt, trung bình, kém và không biệt hóa
Hình ảnh vi thể, tất cả
các HCC tế bào sáng cho thấy sự tích lũy trong tế bào chất bởi glycogen và những
hạt vĩ mô hoặc vi mô chất béo hòa tan trong nội bào khi nhuộm hematoxylin–eosin
(HE) để lại một tế bào chất “ sáng”. Nhìn chung, những tế bào u chủ yếu có độ
biệt hóa trung bình, mức độ ác tính thấp.
Hình 3: Vi thể HCC tế bào sáng
5.
Hóa
mô miễn dịch
Trong các trường hợp được
công bố HCC tế bào sáng người ta thấy sự thiếu hụt của cytokeratin 7, cytokeratin
19 và kháng nguyên biểu mô màng(EMA) (Adamek et al. 1998; Leroy et al. 1998;
Murakata et al. 2000; Clayton và cộng sự. 2012). Trong một nghiên cứu 10 trường hợp, không có khối u cho thấy khả
năng miễn dịch với AFP (Murakata và cộng sự 2000). Phân biệt HCC tế bào sáng nguyên phát với di căn gan của ung thư biểu mô
tế bào sáng khác có thể rất khó khăn và đôi khi không thể nếu không kiểm tra
thêm bằng các xét nghiệm. Phản ứng miễn dịch hóa học đặc trưng cho tế bào gan
(hepatocyte paraffin / Hep Par 1) có thể hữu ích
trong những trường hợp như vậy (Murakata và cộng sự 2000; Shah và cộng sự
2005). Chỉ riêng Hep Par 1 được báo cáo là có độ nhạy 82% và 90% đặc hiệu trong
việc phát hiện HCC (Wennerberg et al. 1993; Minervini et al. 1997). HCC tế bào sáng cũng có tác dụng đối với dấu marker
dòng (ineage marker), arginase-1 (Sang et al.
2013). Hơn một nửa trong số các trường hợp HCC tế bào sáng, miễn dịch màng tế
bào được tìm thấy bằng cách sử dụng một kháng thể đa dòng CEA (pCEA) (Murakataet
al. 2000).
Phản ứng ti thể (stromal)
trong HCC tế bào sáng xảy ra với mức độ thay đổi tương tự như các HCC khác,
nhưng không có nhiều hiểu biết về dòng protein ngoại bào trong những khối u này. Fibronectin dường như cho thấy biểu hiện bất thường ở
HCC (Torbenson et al. 2002).
Khi nghiên cứu cấu trúc
của fibronectin trong HCC bằng cách sử dụng hóa mô miễn dịch, thấy một sự gia
tăng đáng kể của fibronectin đã được thấy trong ibrolamellar HCC, clear cell
HCC, và encapsulated HCC (Jagirdar et al. 1985).
6.
Sinh
bệnh học
Sinh bệnh học học của bệnh
HCC tế bào sáng đến nay vẫn chưa được tìm hiểu đầy đủ,nhưng nó có điểm nổi bật
là sinh bệnh học của bệnh thuận lợi hơn ở bệnh nhân bị HCC tế bào sang hơn ở những
người có HCC thông thường (Li et al. 2011, 2013). Một số báo cáo đã cho rằng khối
u hiếm khi di căn và do đó có một tiên lượng khá thuận lợi.(Wu et al. 1983;
Pecorella et al. 1994).
Trong một nghiên cứu hệ
thống các chỉ số tiên lượng ở HCC, đó là thấy rằng có một sự sống sót tốt hơn ở
bệnh nhân bị HCC tế bào sáng và sự sống sót liên quan trực tiếp với tỷ lệ của
các tế bào sáng trong khối u (Lai et al. 1979).
7.
Điều
trị và Tiên lượng
Trong một nghiên cứu
trên 64 bệnh nhân, thời gian sống trung bình trong nhóm được phẫu thuật cắt u
là 38 tháng, trong khi nhóm cắt u phối hợp với hóa trị sau phẫu thuật bằng
canxi folate và tegafu có thời gian sống trung bình 41 tháng. Sự hình thành vỏ
bọc u, chức năng gan trước phẫu thuật, nhiễm virus viêm gan C, xâm lấn mạch máu
lớn, và nhiều khối u tái phát có liên quan đến thời gian sống không bệnh (Ji et
al. 2010)
Li và cộng sự (2011) đã
báo cáo 214 trường hợp HCC tế bào sáng được điều trị bằng phẫu thuật cắt u, và tái
phát tại gan được phân loại thành tái phát sớm (<1 năm) và muộn (> 1
năm) đã thấy rằng thời gian sống toàn bộ
sau 1-, 3- và 5 năm với tỷ lệ sống ở bệnh
nhân HCC tế bào sáng cao hơn đáng kể so với những người mắc HCC thông thường.
Trong một nghiên cứu
lâm sàng gần đây với 43 trường hợp, theo phương pháp Kaplan-Meier cho thấy rằng
tỷ lệ sống sau 1-, 3-, và 5 năm là cao
hơn đáng kể trong nhóm HCC tế bào sáng so với HCC thông thường, và HCC tế bào
sáng có tiên lượng tốt hơn.
Các nghiên cứu khác
không xác nhận một kết quả tốt hơn ở bệnh nhân bị tổn thương này. Một nghiên cứu
về HCC tế bào sáng với tiến triển bệnh nhanh chóng đã được báo cáo (Audisio et
al. 1987; Pecorella et al. 1994). Một nghiên cứu về một loạt ca bệnh lớn hơn của
bệnh nhân có HCC tế bào sáng (N = 215) ghi nhận sự sống sót sau phẫu thuật 5
năm thấp hơn đối với loại khối u này, tức là, 33% so với 46% đối với HCC thông
thường (Yang et al. 1996). Tuy nhiên, không có sự khác biệt trong dài hạn của tiên
lượng HCC tế bào sáng khi so sánh với HCC không phải tế bảo sáng.
Một số nghiên cứu còn
cho thấy tiên lượng của bệnh nhân HCC tế bào sáng tốt hơn so với các nhóm khác
và tỉ lệ sống sót được cải thiện khi tỉ lệ tế bào sáng tăng..Theo Liu ( 2008) tỷ
lệ sống sót sau 1, 3 và 5 năm cho nhóm HCC tế bào sáng là 81%, 53% và 39%
;trung bình, 40 tháng. Nhóm Tỉ lệ tế bào sáng <75 % có tỉ lệ sống sót sau phẫu
thuật và sống sót không bệnh thấp hơn nhóm >75%.
8.
Kết
luận
Ung thư tế bào sáng nguyên phát của gan (PCCCL) là một loại mô bệnh học đặc biệt của HCC với
tần số khác nhau khoảng từ 0.4% - 37 %
Chẩn đoán HCC tế bào sáng vẫn chưa có tiêu chuẩn thống
nhất nhưng nhiều tác giả xác định HCC tế bào sáng khi tỉ lệ tế bào sáng >50%
Điều trị HCC tế bào sáng tương tự HCC thông thường bằng
phẫu thuật và hóa chất với tỉ lệ sống sốt trung bình sau 5 năm là 33%-39%. HCC
tế bào sáng nhìn chung có tiên lượng tốt hơn HCC thông thường và tỉ lệ tế bào
sáng càng cao thì tiên lượng càng tốt.
Bs. Bùi Thanh Thiện
Tài
liệu tham khảo
1. Manuel
Schlageter(2014), “Histopathology of hepatocellular carcinoma”, World J Gastroenterol,20(43),
pp. 15955-15964
2. Sakhuja
(2020),”Clear cell hepatocellular carcinoma: Back to the basics for diagnosis”,
E-JCRT Correspondence.
3.
Zimmermann (2017), “Tumors and
Tumor-Like Lesions of the Hepatobiliary Tract”, Springer International.
4. Zhisheng
Liu (2008), “Clinicopathological and prognostic features of primary
clear cell carcinoma of the liver”, Hepatology
Research;38, pp 291–299.