GẦN 100 CON RẬN MU LÀM TỔ TRÊN MI MẮT NAM BỆNH NHÂN
Đây là trường hợp hiếm gặp ,nam bệnh nhân 55 tuổi có địa chỉ tại
Hà Giang.
Bệnh nhân đến viện khám với lý do ngứa mắt nhiều, đã khám và nhỏ
thuốc tại một số bệnh viện gần nhà nhưng không khỏi.
Đến khám chuyên khoa Mắt tại Bệnh viện đa khoa Hùng Vương, bệnh
nhân được kiểm tra mắt bệnh nhân dưới kính sinh hiển vi thì "tá hỏa"
vì có hàng trăm ký sinh trùng và trứng ký sinh trên mi mắt bệnh nhân.
Bác sỹ đã tiến
hành gây tê tại chỗ và lấy ra gần 100 ký sinh trùng rận mu và hơn 100 trứng ký
sinh.
Bệnh nhân chia
sẻ: Gia đình có nuôi gia cầm và gia súc phía dưới sàn nhà và có thể đó là
nguyên nhân khiến ông bị nhiễm ký sinh trùng rận mu trên mắt.
Rận mu là loại côn
trùng ký sinh hay còn gọi là rận lông mu, rận cua, chấy cua, rận bẹn. Rận mu có
tên khoa học là Pthirus pubis (Linnaeus, 1758), thuộc bộ Anoplura [1].
Nhiễm ký sinh trùng
rận mu được xem là một bệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs). Chúng có chu
kỳ phát triển nội sinh tức hoàn thiện vòng đời ngay trên cơ thể ký chủ.
Pthirus pubis là một loài rận thuộc côn trùng hút máu
không có cánh, sống và sinh sản ở vùng da lông mu, vùng sinh dục nhất là ở nam
giới, ngoài ra rận mu có thể được tìm thấy ở lông mày, lông mi, râu, ria mép,
ngực, nách, vv, rất ít gặp ở tóc. Khi ký sinh trên cơ thể con người, rận mu là
tác nhân gây ra bệnh rận mu hay rận lông mu gây ra triệu chứng ngứa ngáy ở
những vùng nhạy cảm [1],[3].
Những người có bệnh
rận mu thường đi khám vì ngứa hoặc vì họ nhận thấy rận hoặc trứng trên lông mu
của mình [4].
1. Đặc điểm sinh lý
1.1.Hình thể
Chy kỳ phát triển
của Pthirus pubis chia 3 giai đoạn: trứng, nhộng, và con
trưởng thành. Rận cái đẻ khoảng 30 - 50 trứng, vòng đời 30 ngày. Các trứng được
gắn ở chân lông. Pthirus pubis có chu kỳ phát triển biến thái
không hoàn toàn (tức ấu trùng và con trưởng thành có hình thái không khác nhau
là mấy) [1],[3].
Rận mu có kích thước
0,8 - 1,2 mm. Đầu tương đối ngắn và nằm trong một lõm của ngực. Ngực của rận
lớn bề ngang và dính liền với bụng thành một khối. Chúng có 6 chân, mỗi trong
số đó chấm dứt với 1 móng vuốt ở cổ chân. Các móng vuốt trên cặp thứ 2 và thứ 3
của chân là rất lớn so với cặp đầu tiên, móng dài, khỏe và cong lại [1],[3].
Trứng dài 0,6 -
0,8mm, Pthirus pubis đẻ trứng trên lông mu, ngoài ra chúng còn
đẻ trứng trong khu vực hậu môn, nách, đùi, bụng và thậm chí sẽ ở lông mi và
râu. Pthirus pubis chủ yếu được tìm thấy trong điều kiện mất
vệ sinh [3].
Trứng Pthirus pubis
1.2. Chu kỳ phát triển
Rận mu sinh sản quanh
năm, thời gian mang thai khoảng 6 - 8 ngày, độ tuổi trung bình ở tuổi trưởng
thành hoặc sinh sản của con cái là 23 ngày. Ấu trùng nở trong 6 - 8 ngày và
thường bắt đầu hút máu trong vòng vài giờ đầu tiên. Trong khi hút máu chúng
thường vẫn đứng yên, bám vào sợi tóc và cắm phần miệng vào da. Toàn bộ chu
trình sống của rận mu từ trứng cho con trưởng thành là 4 - 6 tuần, với con
trưởng thành sống khoảng 2 tuần. Rận mu có thể bò khoảng cách 10cm/đêm nhưng
thường vẫn đứng yên [1],[3].
Khi nhiệt độ cơ thể
tăng (sốt) hay giảm (lúc sắp chết), rận sẽ rời vật chủ, đi tìm vật chủ khác
[1]. Rận thường sống khoảng 1 tháng, chết ngay sau khi sinh sản.
Chu kỳ phát triển của Pthirus pubis
Rận mu có 3 giai đoạn:
trứng, nhộng và trưởng thành. Trứng được dính dọc theo trục của tóc (1). Con
cái sẽ đẻ khoảng 30 - 50 trứng trong quá tuổi thọ 3 - 4 tuần. Trứng nở sau
khoảng 1 tuần, ấu trùng giống như con trưởng thành nhưng nhỏ hơn. Các con non
trải qua 3 lần lột xác (2, 3 , 4) trước khi trở thành con trưởng thành (5). Con
trưởng thành dài 0,8 - 1,2 mm và phẳng. Con trưởng thành chỉ được tìm thấy trên
người và hút máu người để tồn tại [1],[3].
2. Dịch tễ
Tỷ lệ mắc bệnh trên
toàn thế giới hiện nay vào khoảng 2% dân số. Để có được con số chính xác là khó
khăn, vì nhiễm ký sinh trùng rận mu không được coi là một bệnh cần báo cáo của
nhiều quốc gia, và nhiều trường hợp là tự điều trị hoặc điều trị kín đáo bởi
các bác sĩ cá nhân [5].
Mặc dù bất kỳ vị trí
nào của cơ thể có thể bị rận, nhưng chúng thường gây bệnh ở lông của bộ phận
sinh dục và khu vực ven đường hậu môn. Đặc biệt là ở những bệnh nhân nam, rận
mu và trứng cũng có thể được tìm thấy trong tóc, trên bụng và dưới nách, cũng
như trên bộ râu và ria mép, trong khi ở trẻ chúng thường được tìm thấy trong
lông mi [1],[2],[3].
3. Triệu chứng và vai
trò gây bệnh
Rận mu cho tới nay
chưa phát hiện truyền bệnh gì. Ngứa là các triệu chứng phổ biến nhất của bệnh,
nguyên nhân là do nước bọt của rận, khi rận hút máu, nước bọt tiết ra tạo ra
phản ứng. Ngứa xảy ra sau 1 - 2 tuần nhiễm bệnh. Như với nhiễm ký sinh trùng
rận khác, ngứa dữ dội dẫn đến gãi, gãi có thể gây ra lở loét và nhiễm khuẩn thứ
phát. Nếu lông mi bị nhiễm rận, kèm theo nhiễm trùng thứ cấp có thể đưa tới
viêm kết mạc mụn rộp và viêm giác mạc. Ngoài ra, bệnh nhân có thể mất ngủ, tâm
thần bị ức chế [1],[2],[3].
Sẩn đỏ ngứa là biểu
hiện phổ biến nhất, ngứa có xu hướng tồi tệ hơn vào ban đêm. Vết thâm và trầy
xước tìm thấy trên da bệnh nhân.
Một biểu hiện khác của
căn bệnh là trứng, trứng rận mu gắn liền với lông mu hoặc ít hơn là các vùng
lông khác của cơ thể (lông mi, lông mày, râu, ria mép, nách, ngực, lưng) làm
cho chúng ta khó chịu.
Rận mu trên đầu (lông
mi hay lông mày) của một đứa trẻ có thể là một dấu hiệu cho thấy tiếp xúc tình
dục hoặc lạm dụng [3].
Người bị nhiễm rận mu
nên được đánh giá đối với các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác (STDs).
Rận mu được truyền qua
tiếp xúc cơ thể gần gũi (ví dụ, từ một bộ râu bị nhiễm khuẩn hoặc ngực), có thể
quan hệ tình dục.
4. Chẩn đoán
4.1. Chẩn đoán xác
định
Rận mu thường được
chẩn đoán bằng cách cẩn thận kiểm tra lông mu tìm trứng, nhộng và con trưởng
thành [6]. Rận và trứng có thể được gỡ bỏ, hoặc với kẹp hoặc bằng cách cắt tóc
bị nhiễm khuẩn bằng kéo (ngoại trừ vùng mắt), định loại trên kính hiển vi. Nếu
rận được phát hiện trong một thành viên gia đình, toàn bộ gia đình cần phải
được kiểm tra và chỉ những người đang bị nhiễm rận cần được điều trị [3].
4.2. Chẩn đoán phân
biệt [7]
Trứng chấy: hơi lớn
hơn so với trứng rận mu và chỉ được tìm thấy trên da đầu.
Sẩn đỏ ngứa: ghẻ (Phản
ứng da làm cho da biến màu xám xanh nhạt. Lở loét ở vùng sinh dục, vùng bẹn,
các kẽ ngón tay chân do vết cắn và gãi).
Có dấu hiệu nhiễm
trùng như bệnh chốc lở.
Viêm bờ mi ở trẻ nhỏ
không phải rận mu, lông mi nên được xem với một kính lúp có độ phóng đại cao để
tìm nguyên nhân.
5. Điều trị
Các phác đồ được
khuyến nghị [3]
Bôi Permethrin 1% dạng
kem, rửa sạch sau 10 phút.
Hoặc: Bôi Pyrethrins
với piperonyl butoxide và rửa sạch sau 10 phút.
Các phác đồ thay
thế[3]
Bôi Malathion 0,5%,
rủa sạch sau 8-12 giờ.
Hoặc: Ivermectin
0,25mg/kg đường uống, lặp đi lặp lại trong 2 tuần.
Lưu ý, Pediculcides
(Permethrin và Pyrethrins) đã được sử dụng rộng rãi [8],[9]. Malathion có thể
được sử dụng khi thất bại điều trị được cho là rận mu kháng thuốc. Ivermectin
có thể không diệt được trứng trong thời gian điều trị [10], và do đó điều trị
nên được lặp đi lặp lại trong 14 ngày [11],[12]. Điều chỉnh liều lượng thuốc
Ivermectin là không cần thiết cho người suy thận, nhưng sự an toàn của nhiều
liều ở những người có bệnh gan nặng không được biết.
Lindane dầu gội đầu là
một loại thuốc có thể giết chết rận và trứng. Tuy nhiên, Lindane không được
khuyến cáo như là một liệu pháp đầu tiên. Lindane có thể gây độc cho não và các
bộ phận khác của hệ thần kinh; sử dụng của nó nên được giới hạn cho những bệnh
nhân đã thất bại điều trị hoặc không thể dung nạp các thuốc khác mà gây ra ít
rủi ro. Lindane không nên được sử dụng để điều trị những trẻ sinh non, những
người có rối loạn co giật, phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú, người có làn da
dị ứng vối Lindane, trẻ sơ sinh, trẻ em (< 10 tuổi), người già [13].
Những trường hợp đặc
biệt
Phụ nữ mang thai
Phụ nữ có thai và cho
con bú nên được điều trị bằng hoặc Permethrin hoặc Pyrethrins với Piperonyl
butoxide. Bởi vì thuốc không gây quái thai hay độc tính. Ivermectin đã được
quan sát thấy trong thời kỳ thai nghén, Ivermectin được phân loại là "có
nguy cơ thấp" trong thai kỳ và cho con bú [14]. Sử dụng Lindane trong khi
mang thai có liên quan đến dị tật ống thần kinh và chậm phát triển tâm thần, và
nó có thể tích lũy trong nhau thai và sữa mẹ [13].
Nhiễm HIV [3]
Những người có bệnh
rận mu và cũng nhiễm HIV nên được phác đồ điều trị tương tự như những người HIV
âm tính.
Rận lông mi
Các phác đồ khuyến cáo
không nên được áp dụng cho đôi mắt. Rận của lông mi nên được điều trị bằng cách
áp dụng thuốc mỡ cho mắt hoặc dầu bôi trơn đến các lề mí mắt hai lần một ngày
trong 10 ngày.
Lưu ý trong quá trình
điều trị [3]
Bộ đồ giường và quần
áo nên được khử nhiễm hoặc loại bỏ khỏi cơ thể tiếp xúc ít nhất 72 giờ. Dịch vụ
khử trùng các khu vực sinh hoạt là không cần thiết. Người có bệnh rận mu nên
được đánh giá STDs khác, bao gồm cả HIV.
Đánh giá nên được thực
hiện sau 1 tuần nếu các triệu chứng vẫn tồn tại. Tái điều trị có thể là cần
thiết nếu chí được phát hiện hay nếu trứng được tìm thấy.
Các đối tác tình dục
trong tháng trước nên được điều trị. Quan hệ tình dục nên tránh cho đến khi
bệnh nhân và các đối tác đã được xử lý.
6. Phòng bệnh[3]
- Sử dụng thuốc điều
trị rận mu đúng chỉ định.
- Sau điều trị, hầu
hết trứng tồn tại trên lông tóc. Trứng rận có thể được gỡ bỏ bằng móng tay, kẹp
hoặc nhíp.
- Dùng đồ lót và quần
áo “sạch” sau khi điều trị.
- Để loại trừ rận hoặc
trứng còn lại trên quần áo, khăn, hoặc giường. Giặt và phơi khô những đồ dùng
người bị bệnh, dùng lại sau 2 - 3 ngày. Các đồ dùng không thể giặt có thể được
lưu trữ trong một túi nhựa kín trong 2 tuần.
- Tất cả bạn tình
trong tháng trước đó nên được thông báo rằng họ có nguy cơ bị nhiễm và cần được
điều trị.
- Người bị rận mu nên
tránh quan hệ tình dục với bạn tình của họ cho đến khi cả họ và đối tác của họ
đã được điều trị thành công và đánh giá lại để loại trừ nhiễm dai dẳng.
- Lặp lại điều trị
trong 9 - 10 ngày nếu rận còn sống vẫn được tìm thấy.
- Không dùng chung
quần áo, bộ đồ giường và khăn của người bệnh.
- Thuốc xịt diệt côn
trùng là không cần thiết đối với rận mu.
- Người có rận mu nên
được đánh giá đối với các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác (STDs).
- Tránh quan hệ tình
dục đường âm đạo, miệng hay hậu môn là tốt nhất để phòng ngừa STDs.
- Hạn chế số lượng bạn
tình.
- Người dân hay nhân
viên y tế đi vào vùng dịch bệnh lưu hành cần mặc quần áo bảo hộ tẩm hóa chất
xua, diệt côn trùng; quần áo trơn láng, bó sát cổ, cổ tay, cổ chân.
1. Nguyễn Văn Đề (2013), Ký sinh trùng trong lâm sang, Nxb Y học, tr 165 - 166.
2. Trần Xuân Mai (2010), Bộ chí rận, Nxb Y học, tr 387 - 390.
3. Parasites - Lice - Pubic "Crab" Lice. [Online]Available at: http://www.cdc.gov/parasites/lice/pubic/, [Accessed July 27, 2015]
4. Galiczynski EM, Jr., Elston DM. What's eating you? Pubic lice (Pthirus pubis). Cutis 2008;81:109-14.
5. Patel P, Bush T, Mayer K, et al. Routine brief risk-reduction counseling with biannual STD testing reduces STD incidence among HIV-infected men who have sex with men in care. Sex Transm Dis 2012;39:470-4.
6. CDC. A comprehensive immunization strategy to eliminate transmission of hepatitis B virus infection in the United States: recommendations of the Advisory Committee on Immunization Practices (ACIP) part II: immunization of adults. MMWR Recomm Rep 2006;55(No. RR-16).
7. CDC. Sexually transmitted diseases treatment guidelines. MMWR Recomm Rep 2010;59(No. RR-12).
8. Meinking TL, Serrano L, Hard B, et al. Comparative in vitro pediculicidal efficacy of treatments in a resistant head lice population in the United States. Arch Dermatol 2002;138:220-4.
9. Yoon KS, Gao JR, Lee SH, et al. Permethrin-resistant human head lice, Pediculus capitis, and their treatment. Arch Dermatol 2003;139:994-1000.
10. Burkhart CG, Burkhart CN. Oral ivermectin for Phthirus pubis. J Am Acad Dermatol 2004;51:1037-8.
11. Scott GR, Chosidow O. European guideline for the management of pediculosis pubis, 2010. International journal of STD and AIDS 2011;22:304-5.
12. Goldust M, Rezaee E, Raghifar R, et al. Comparing the efficacy of oral ivermectin vs malathion 0.5% lotion for the treatment of scabies. SkinMed 2014;12:284-7.
13. Nolan K, Kamrath J, Levitt J. Lindane toxicity: a comprehensive review of the medical literature. Pediatr Dermatol 2012;29:141-6.
14. Briggs GC, Freeman RK, Yaffe SJ. Drugs in Pregnancy and Lactation, 9th ed. Philadelphia, PA: Lippincott Williams & Wilkins; 2011.