Friday, June 3, 2022

Điều trị nang ống mật chủ

Tên gọi nang ống mật chủ (common bile duct cyst) thực chất phải là nang đường mật (choledochal cyst) (vì nang của ống mật chủ chiếm chủ yếu nên tên gọi của bài này là nang ống mật chủ), đó là một bất thường bẩm sinh của cả đường mật trong và ngoài gan mà chủ yếu là do giãn không đều của cây đường mật.

Năm 1723, hai tác giả đầu tiên Vater và Ezler đã mô tả giải phẫu của một u nang ống mật chủ. Tiếp đó, Douglas báo cáo lâm sàng một ca nang ống mật chủ của 1 bệnh nhân nữ 17 tuổi có biểu hiện vàng da, sốt, đau bụng liên tục, và có khối ở bụng.

Bệnh nang ống mật chủ tương đối hiếm gặp ở các nước phương Tây. Tần số gặp từ 1/100.000-150.000 tới 1/2 triệu ca. Nang OMC phổ biến ở châu Á hơn so với ở các nước phương Tây. Miyano và Yamataka  (Nhật Bản) thông báo tần số nang ống mật chủ gặp 1/1000 dân.

Triệu chứng cổ điển là đau bụng, vàng da, và sờ thấy một khối u ở góc phần tư trên phải bụng. Thường xảy ra ở trẻ em hơn ở người lớn.

Khi bị nang ống mật chủ:

• Nang ống mật chủ xu thế phát triển xơ hóa ở trẻ em.

• Dấu hiệu của viêm và tăng sản chủ yếu thấy ở người lớn.

• Các biến chứng dài hạn xảy ra trong 29,7% của người lớn nhưng chỉ có 9,3% trẻ em.

Tỷ lệ tử vong và tiến triển: 

Nguy cơ tiến triển phụ thuộc vào tuổi của bệnh. Ở trẻ sơ sinh và trẻ em có thể phát triển viêm tụy, viêm đường mật và tổn thương tế bào gan. Ở người lớn có thể viêm đường mật và ứ mật hoặc nhiều áp-xe gan, xơ gan, tăng áp tĩnh mạch cửa, viêm tụy cấp nhiều đợt và sỏi mật.

Ung thư ống mật là biến chứng đáng sợ nhất u nang ống mật chủ, với một tỷ lệ 9-28%.

Giới tính: Nang ống mật chủ phổ biến ở nữ hơn nam giới, với một tỷ lệ nữ:nam từ 3:1 đến 4:1.

Tuổi: Hầu hết các bệnh nhân với nang ống mật chủ được chẩn đoán trong giai đoạn sơ sinh hay khi còn bé. Khoảng 67% bệnh nhân đến viện với các dấu hiệu của nang OMC trước khi 10 tuổi.

Các hình thái nang đường mật



             

Type 1  là phổ biến nhất và chiếm 80-90% u nang ống mật chủ. Bao gồm nang dạng túi hoặc hình thoi của ống mật chủ.

Type 2 là các nang ống mật chủ dạng túi thừa bị cô lập nhô ra từ thành của ống mật chủ, nang này thông với ống mật chủ bởi một ống nối hẹp.

Type 3 (choledochocelle):  là các nang ống mật chủ phát sinh từ phần thấp của ống mật chủ, tính từ dưới D2 tá tràng.

Nang hỗn hợp (type 4): Type 4  là sự giãn to của đường mật trong gan và ngoài gan.

Nang trong gan (type 5):Type 5 (bệnh Caroli) gồm các nang của các đường mật trong gan.

Điều trị:

Tùy theo từ dạng nang ống mật chủ mà có chỉ định điều trị khác nhau. Cụ thể:

  • Type I: Phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ nang và lập lại lưu thông mật ruột bằng nối mật ruột trên quai Rouxen – Y.
  • Type II: Phẫu thuật cắt bỏ túi thừa.
  • Type III (choledochocele): Phương pháp điều trị type này phụ thuộc vào kích thước của nang: ≤ 3cm chỉ định can thiệp nội soi qua thực quản cắt cơ thắt Oddi (SE: endoscopic sphincterotomy), > 3 cm phẫu thuật cắt bỏ nang hoặc mở vào tá tràng và trồng lại ống tụy vào tá tràng nếu ống tụy bị cắm vào trong nang.
  • Type IV: Phẫu thuật cắt toàn bộ ống mật chủ ngoài gan bị giãn, nối ống gan còn lại với ruột trên quai chữ Y, với nang trong gan không cần xử trí gì trừ khi có sỏi, áp xe hay hẹp đường mật (trong trường hợp như vậy, chỉ định cắt bỏ đoạn hẹp hoặc cắt bỏ thùy gan)
  • Type V (Caroli disease): Cắt bỏ thùy gan nếu nang ở 1 thùy (thường là thùy gan trái); tuy nhiên, cần đánh giá chức năng gan còn lại có đủ không trước khi phẫu thuật cắt 1 thùy gan. Với những trường hợp nang đường mật cả 2 thùy, xơ gan mật, suy gan hoặc tăng áp lực cửa có thể có chỉ định ghép gan.
  • Kỹ thuật Lilly: Khi khối u nang đường mật phát triển về phía tĩnh mạch cửa do qua trình viêm nhiễm lâu ngày, mà không thể cắt bỏ toàn bộ khối u nang, thì kỹ thuật Lilly lấy bỏ niêm mạc để lại vỏ xơ nang sẽ giảm được nguy cơ ung thư.


Theo PGS.TS. Nguyễn Thanh Long – BS Hoàng Minh Đức/ Bệnh viện Việt Đức