Tuesday, May 3, 2022

Thông báo lâm sàng: Lồng ruột non do lipoma

 1.            Mở đầu

Lồng ruột là nguyên nhân gây tắc ruột ở người lớn là rất hiếm. Luôn có một bệnh lý tiềm ẩn dẫn đến lồng ruột ở người lớn. Một trường hợp lồng ruột ở người lớn do u mỡ ruột non được trình bày theo quan điểm của mối liên quan này. Siêu âm và CT có giá trị trong chẩn đoán trước phẫu thuật. Tuy nhiên, can thiệp phẫu thuật sớm là phương pháp điều trị chính đồng thời giúp xác định chẩn đoán xác định nguyên nhân lồng ruột

2. Ca lâm sàng

Bệnh nhân nam 58 tuổi có biểu hiện lâm sàng là đau bụng quặn cơn ở vùng mạn sườn pha kèm theo nôn, trung đại tiện bình thường. Bệnh nhân có tiền sử đau quặn từng cơn ở vùng bụng dưới bên phải trong hơn một tháng qua. Thăm khám lâm sàng cho sờ thấy 1 khối mật độ mềm kích thước 3 x 4 cm ở vùng mạn sườn trái. Siêu âm cho thấy hình ảnh lồng ruột non.CT bụng có cản quang cho thấy dấu hiệu lồng ruột điển hình ở mạn sườn trái gợi ý lồng ruột non kèm theo một tổn thương rất có thể gợi ý u mỡ thành ruột



Bệnh nhân được phẫu thuật nội soi thăm dò. Phẫu thuật mở bụng cho thấy lồng ruột hồi – hồi tràng cách góc Treitz khoảng 100 cm, khối lồng chặt. Tháo lồng bằng tay kiểm tra thấy có 1 khối u trong lòng hồi tràng kích thước ~ 1 x 3 cm đoạn đầu khối lồng . Cắt bỏ đoạn ruột non chứa u, mỗi đầu cách u 5 cm. Mặt cắt của bệnh phẩm được cắt bỏ cho thấy một polyp có cuống với niêm mạc bên trên còn nguyên vẹn, điển hình của một tổn thương dưới niêm mạc (Hình 2).


Kiểm tra mô bệnh học của bệnh phẩm xác nhận chẩn đoán u mỡ dưới niêm mạc lành tính . Quá trình hậu phẫu ổn định. Bệnh nhân ra viện sau 10 ngày hậu phẫu.

3.       Bàn luận

Lồng ruột là nguyên nhân hàng đầu gây tắc ruột ở trẻ em trong khi ở người lớn, nó là một thực thể hiếm gặp, chỉ chiếm 1–5% tổng số các trường hợp biểu hiện là tắc ruột. Không giống như trẻ em, phần lớn bệnh nhân người lớn có biểu hiện lồng ruột, đều có nguyên nhân thực thể [2]. Các tình trạng bệnh lý như ung thư biểu mô, u mỡ, ung thư hạch, túi thừa và polyp tuyến hoạt động như một điểm khởi đầu dẫn đến lồng ruột. Tỷ lệ bệnh ác tính ở các tổn thương ruột non biểu hiện như lồng ruột là khoảng 30% [1]. Lipoma là một khối u lành tính phổ biến được tìm thấy ở bất kỳ vị trí nào dọc theo ống tiêu hóa , thường gặp nhất là ở hồi tràng [5]. Các tổn thương nhỏ hơn không gây ra nhiều triệu chứng. Tuy nhiên các tổn thương lớn hơn luôn dẫn đến lồng ruột. Hồi tràng cuối là vị trí phổ biến nhất để lipomas xảy ra. Loại dưới niêm mạc là phổ biến nhất sau đó là các loại giữa cơ và thanh mạc. Reijnen và cộng sự. [6] báo cáo rằng chẩn đoán trước phẫu thuật chỉ có thể được thực hiện ở 50% bệnh nhân với sự trợ giúp của các nghiên cứu hình ảnh. Siêu âm và chụp cắt lớp vi tính (CT) ổ bụng là những phương thức hình ảnh rất hữu ích để chẩn đoán lồng ruột và bản chất của tổn thương lồng ngực.

Đối với lồng ruột cấp tính ở người lớn, phẫu thuật mở bụng được coi là lựa chọn điều trị thay vì cố gắng làm điều trị nội khoa vì có nguy cơ đáng kể về bệnh lý ác tính tiềm ẩn [8]. Mặc dù độ dài của ruột liên quan đến lồng ruột khác nhau, nhưng vẫn còn tranh cãi về vấn đề liệu có nên tháo lồng trong mổ hay không. Trong trường hợp hiện tại, chẩn đoán trước phẫu thuật là u mỡ trong ổ bụng là nguyên nhân gây lồng ruột đã được đưa ra. Khi tổn thương liên quan đến một chiều dài đáng kể của ruột non, tháo lồng trong mổ đã được thực hiện và đã thành công. Điều này đã giảm đáng kể chiều dài của đoạn ruột non phải cắt bỏ. Đoạn có chứa lipoma sau tháo lồng sẽ được cắt bỏ. Hạn chế duy nhất của phương pháp này là có thể vô tình làm tổn thương ruột và do đó có khả năng phát tán các tế bào ác tính trong quá trình thao tác trong khi cố gắng tháo lồng ruột trong các trường hợp ác tính. Do đó thao tác tháo lồng nhẹ nhàng. Nếu nỗ lực không mang lại kết quả nào, nó nên cắt bỏ toàn bộ khối lồng [9].

4. Kết luận

Lồng ruột ở người lớn là một tình trạng không phổ biến luôn có liên quan đến một tổn thương thực thể cần can thiệp phẫu thuật để đưa ra chẩn đoán xác định. U mỡ ruột non có thể gây ra hiện tượng lồng ruột như tắc nghẽn. Siêu âm và CT là những phương pháp hỗ trợ rất quan trọng trong chẩn đoán lồng ruột trước mổ. Can thiệp ngoại khoa sớm là phương pháp chính để chẩn đoán và điều trị xác định.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  •      1 .  G. Lianos, N. Xeropotamos, C. Bali, G. Baltogiannis, and E. Ignatiadou, “Adult bowel intussusception: presentation, location, etiology, diagnosis and treatment,” Giornale di Chirurgia, vol. 34, no. 9-10, pp. 280–283, 2013.
  •      2.             N. Wang, X.-Y. Cui, Y. Liu et al., “Adult intussusception: a retrospective review of 41 cases,” World Journal of Gastroenterology, vol. 15, no. 26, pp. 3303–3308, 2009.
  •      3.            W. T. Stubenbord and B. Thorbjarnarson, “Intussusception in adults,” Annals of Surgery, vol. 172, no. 2, pp. 306–310, 1970.
  •      4.            D. M. Nagorney, M. G. Sarr, and D. C. McIlrath, “Surgical management of intussusception in the adult,” Annals of Surgery, vol. 193, no. 2, pp. 230–236, 1981.
  •      5.            M. N. Akcay, M. Polat, M. Cadirci, and B. Gencer, “Tumor-induced ileo-ileal invagination in adults,” American Surgeon, vol. 60, no. 12, pp. 980–981, 1994.
  •      6.            H. A. M. Reijnen, H. J. M. Joosten, and H. H. M. de Boer, “Diagnosis and treatment of adult intussusception,” The American Journal of Surgery, vol. 158, no. 1, pp. 25–28, 1989.
  •      7.            H. Akyildyiz, I. Biri, A. Akcan, C. Küçük, and E. Sözüer, “Ileal lipoma: case report,” Erciyes Tip Dergisi, vol. 33, no. 1, pp. 083–086, 2011.
  •      8.            F. Barbiera, S. Cusmà, D. Di Giacomo, M. Finazzo, A. Lo Casto, and S. Pardo, “Adult intestinal intussusception: surgery-CT correlations,” Radiologia Medica, vol. 102, no. 1-2, pp. 37–42, 2001.
  •      9.            A.-W. N. Meshikhes, S. A. M. Al-Momen, F. T. Al Talaq, and A. H. Al-Jaroof, “Adult intussusception caused by a lipoma in the small bowel: report of a case,” Surgery Today, vol. 35, no. 2, pp. 161–163, 2005.