1.
TỔNG QUAN
Trên thế giới, sỏi tiết niệu nói chung là một
bệnh lý rất phổ biến, chiếm tỷ lệ dao động từ 2-14% dân số. Tỷ lệ sỏi tiết niệu
thấp gặp ở người dân da đen châu Mỹ, nhưng lại cao ở các nước châu Á mà điển
hình là Thái Lan, Ấn Độ [1], [2], [10].
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực vành đai sỏi của thế giới nên tỷ lệ sỏi tiết niệu cao, tỷ lệ bệnh nhân sỏi tiết niệu chiếm khoảng 40-60% bệnh lý tiết niệu nói chung, là bệnh lý hay gặp nhất trong chuyên khoa tiết niệu [1], [2].
Cho đến ngày nay, sỏi thận luôn là vấn đề lớn
đối với y học bởi sự tác động của chúng đến sức khoẻ con người. Menon &
Koul (1992) thấy rằng khoảng 20% số bệnh nhân sỏi thận cần can thiệp phẫu thuật
do biến chứng tắc nghẽn, nhiễm khuẩn và suy thận [10].
Lựa chọn phương pháp điều trị sỏi thận
tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố: đặc điểm
của sỏi (vị trí, số lượng, kích thước, độ cứng, thành phần hóa học, thời gian
có sỏi), các biến chứng (nhiễm khuẩn niệu, mức độ ứ nước thận, chức năng thận),
tình trạng hệ niệu (lưu thông đường tiết niệu dưới sỏi, sỏi trên bệnh nhân có
dị dạng đường tiết niệu), tình trạng bệnh nhân (tuổi, giới, giải phẫu, chức
năng hệ niệu, thể trạng, thận độc nhất, phụ nữ có thai), ngoài ra còn phụ thuộc
vào mức độ xâm hại của phương pháp điều trị, kinh nghiệm và trình độ phẫu thuật
viên cũng như trang thiết bị hiện có của cơ sở điều trị, cuối cùng là kinh phí
và sự lựa chọn của bệnh nhân sau khi đã được tư vấn, cung cấp thông tin đầy đủ
các thông tin cần thiết về bệnh tật và phương pháp điều trị được dự kiến. Trong
các yếu tố trên thì kích thước, độ cứng và số lượng sỏi luôn là những yếu tố
rất quan trọng để quyết định lựa chọn phương pháp can thiệp phù hợp
[1],[2],[6], [9].
2.PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ NỘI KHOA
2.1. Tổng quan
- Nâng cao thể trạng bệnh nhân.
- Sử dụng thuốc giãn cơ trơn hoặc thuốc
kháng cholinegic chống ứ niệu.
- Sử dụng thuốc kháng viêm giảm phù
nề.
- Dùng lợi tiểu nhẹ.
- Uống đầy đủ nước để đảm bảo bài tiết 1,5-2
lít nước tiểu trong 24 giờ.
- Vận động.
- Thay đổi chế độ ăn uống, hạn chế nguồn thức
ăn sinh ra những tinh thể gây sỏi như calcium, Purin...
- Chống nhiễm trùng đường tiết niệu đặc biệt
đối với các loại vi khuẩn tác động lên urê niệu như Proteus, Pseudomonas,
Klebsiella...
- Thay đổi độ pH nước tiểu: kiềm hoá cho loại
sỏi Uric và Cystine, toan hoá cho loại sỏi nhiễm khuẩn, Calcium Phosphate.
- Thay đổi chuyển hoá: Thiazid và
Orthophosphate đối với sỏi Calcium, D- Penicillianin đối với sỏi Cystin,
Allopurinol đối với sỏi Uric [1], [2], [4], [7], [9].
2.2. Điều trị nội khoa tan sỏi[1], [2], [4],
[7], [9]
2.2.1. Sỏi Urat
Nguyên tắc điều trị: làm giảm thiểu tiết thực
có nhiều protein và tăng cường pH nước tiểu. Sỏi urat thường sinh ra ở những
người ăn nhiều, to béo, hay có bệnh goute.
Thay đổi lối sống [7]:
- Uống nhiều nước để đạt được 2 lít nước tiểu
trong 1 ngày.
- Kiêng cử thức ăn protein.
Thuốc đặc hiệu điều trị:
- Làm kiềm hóa nước tiểu như citrat Na,
bicarnonat Na.
- Thuốc tan acid uric như piperazin,
carbonatlithin.
- Thuốc có tính citrat Na + citrat K như
citrosodin, foncitril.
- Thuốc T.H.A.M
(Trihydroxy-methy-aminomethan).
- Thuốc thẩm thấu tại chỗ: bằng phương pháp
tưới rửa liên tục có một số tác giả dùng dung dịch Piperazin 5% + Glycocol 0,3%
làm tan sỏi thận. Phương pháp này có thể gây nhiều biến chứng như nhiễm khuẩn
ngược dòng, kiềm hóa nước tiểu.
2.2.2. Sỏi Cystin
Nguyên tắc điều trị: làm giảm độ tập trung
của cystin trong nước tiểu và giảm sự thải cystin qua nước tiểu.
Thay đổi lối sống [7]:
- Uống nhiều nước.
- Chế độ ăn hạn chế muối và protein.
- Dùng thức ăn tăng pH nước tiểu và hoa quả.
Thuốc đặc hiệu điều trị:
- Thuốc làm giảm nồng độ cystin trong nước
tiểu: D-penicillamine, Thiola, Captopril…
- Thuốc làm giảm tiết cystin vào nước tiểu:
Glutamine.
2.2.2. Sỏi nhiễm trùng (Struvite)
Sỏi Struvite chiếm 10-15% tất cả các loại sỏi
đường niệu. Chúng gặp ở nam hơn nữ giới, tỷ lệ 2/1 [7].
Điều trị sỏi Struvite bằng nội khoa gồm những
phương pháp sau [7]:
- Chế độ ăn: hạn chế canxi, phosphat, nhôm hydroxyd.
- Điều trị làm tan sỏi: hemiacidrin
(renacidin).
- Ức chế Urease: Acetohydroxamic acid
(AHA),
- Toan hóa nước tiểu: L-methionine
(Acimethin).
- Chống nhiễm khuẩn.
2.3. Điều trị tống sỏi bằng thuốc
2.3.1. Chỉ định
- Sỏi nhỏ có đường kính dưới 7mm, sỏi có hình
thuôn, nhẵn, nằm ở những vị trí có thể tống ra ngoài theo đường tự nhiên. Hiện
nay các tài liệu mới khuyên lấy mốc ≤ 5mm thay cho quan điểm 7mm bởi vì Hubner
(1993) [9] nghiên cứu trên 100 bệnh nhân sỏi niệu quản kích thước 6mm thì không
có sỏi tự thoát ra ngoài và có nhiều biến chứng xảy ra.
- Sỏi chưa gây ra các biến chứng như: giãn
đài bể thận, nhiễm khuẩn niệu, chức năng thận còn tốt.
- Sỏi còn có nhiều khả năng di chuyển và tống
ra ngoài theo đường tự nhiên.
- Đường tiết niệu dưới sỏi đủ rộng.
- Thể trạng của bệnh nhân tốt.
2.3.2. Tác dụng dược lý của thuốc lên chức
năng niệu quản
Mục đích của thuốc tống sỏi là làm tăng khả
năng để sỏi tống ra ngoài một cách tự nhiên. Điều trị nên dừng lại trong những
trường hợp có biến chứng (nhiễm trùng, đau dai dẳng, hoặc ảnh hưởng đến chức
năng thận) [9].
Hiện nay có nhiều loại thuốc được lựa chọn có
khả năng tác động lên sinh lý bình thường của niệu quản và giảm sự hình thành
sỏi. Cơ chế tác dụng khác nhau tùy thuộc vào các nhóm thuốc khác nhau [7]:
- Ức chế sự tổng hợp Prostaglandin qua ức chế
men cyclooxygenase.
- Chẹn kênh canxi.
- Ức chế men chuyển Angiotensin.
- Mở kênh Kali.
- Chẹn thụ thể alpha-1-adrenergic.
- Chẹn beta-adrenergic.
- Ức chế men phosphodiesterase.
2.3.3. Thuốc chẹn kênh canxi
Canxi có tác dụng lên sự hoạt động và do đó
nó làm co bóp niệu quản. Bởi vậy chẹn kênh canxi có tác dụng làm ức chế sự co
thắt của cơ trơn niệu quản [3].
Hiện nay có nhiều nghiên cứu trong việc sử
dụng nifedipien trong điều trị cơn đau quặn thận và tống sỏi [7], [11]. Tuy
nhiên, tất cả những nghiên cứu này đều kết hợp sử dụng nifedipine với một thuốc
kháng viêm steroid nên không thể đánh giá được tác dụng hiệu lực của nifedipine
khi sử dụng một mình.
Thuốc kháng viêm steroid không chỉ có tác
dụng kháng viêm trên niệu quản mà còn làm giảm phù nề niệu quản tại vị trí sỏi,
đồng thời với sự tác dụng của nifedipine làm giản cơ trơn niệu quản nên làm
giảm đau quặn thận và thúc đẩy sự tống sỏi [7], [11].
2.3.4. Chẹn thụ thể alpha-1-adrenergic
Trong hệ thống thần kinh giao cảm, các sợi
alpha-1-adrenergic có tác dụng kích thích; bởi vậy khi chẹn các thụ thể
alpha-1-adrenergic thì sẽ làm giãn các sợi cơ trơn và làm giảm sự co thắt.
Nghiên cứu DNA cho thấy dọc theo niệu quản có sự hiện diện của các thụ thể
alpha-1-adrenergic, đặc biệt đoạn cuối niệu quản có số thụ thể gấp đôi so với
đoạn giữa và đoạn gần [7], [8]. Dựa trên phát hiện này, thuốc chẹn thụ thể
alpha-1-adrenergic được dùng để tống xuất sỏi[4], [5], [11].
Có nhiều chất chẹn thụ thể alpha-1-adrenergic
có hiệu lực. Chúng có thể được phân chia sâu hơn thành chất chẹn thụ thể
alpha-1-adrenergic chọn lọc và không chọn lọc. Tamsulosin là một chất chẹn thụ
thể alpha-1-adrenergic chọn lọc, được phân chia thành kiểu phụ alpha-1A và hạn
chế được các tác dụng phụ hơn so với các chất chẹn thụ thể alpha-1-adrenergic
khác [7], [8], [11].
2.3.5. So sánh hiệu lực tống sỏi giữa
Nifedipine và Tamsulosin
Trong nghiên cứu ống nghiệm và lâm sàng, hai
loại thuốc này được so sánh trực tiếp trên niệu quản người đoạn gần và đoạn xa.
Nifedipine cho thấy hiệu quản giãn cơ trơn
niệu quản ngang nhau ở đoạn gần và đoạn xa. Chất chẹn thụ thể
alpha-1-adrenergic thì có hiệu lực giảm trương lực niệu quản ở đoạn xa mạnh hơn
so với niệu quản đoạn gần [4], [7].
Theo nhiều nghiên cứu thì chất chẹn thụ thể
alpha-1-adrenergic có hiệu lực và được sử dụng phổ biến hơn so với Nifedipine
[8], [11].
3. PHÒNG NGỪA SỎI THẬN
Phòng ngừa sỏi thận có thể
bao gồm kết hợp thay đổi lối sống – chế độ ăn và sử dụng thuốc.
3.1. Thay đổi lối sống và
chế độ ăn
Theo nhiều nghiên cứu thì
nguy cơ mắc sỏi thận có thể tăng cao trong mùa hè do sự gia tăng của nhiệt độ.
Khí hậu, nhiệt độ và độ ẩm là những yếu tố quan trọng góp phần hình thành sỏi
thận [1], [2], [4].
Không uống đủ nước hoặc làm
việc trong môi trường nóng là các yếu tố nguy cơ hình thành sỏi thận. Khi một
người di chuyển từ các vùng có nhiệt độ trung bình đến sinh sống tại khu vực có
khí hậu ấm áp hơn thì sự hình thành sỏi thận càng rõ hơn. Chính vì vậy, tỷ lệ
mắc bệnh sỏi thận đặc biệt cao hơn ở những vùng có khí hậu khô, nóng.
Sỏi thận hình thành do cơ
thể bị mất nước, mà sự gia tăng nhiệt độ là một nguyên nhân dẫn đến mất nước. Mất
nước cuối cùng dẫn đến nước tiểu đặc hơn, do đó làm tăng nguy cơ hình thành sỏi
thận. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng uống nhiều nước sẽ làm giảm nguy cơ hình
thành sỏi [1], [2], [4].
3.1.1. Uống nhiều nước suốt
ngày: đối với những người có tiền sử sỏi thận thì được khuyến
cáo nên uống khoảng 2,5 lít mỗi ngày[1], [2], [4].
- Đo lượng nước tiểu hàng
ngày để đảm bảo có uống đủ nước hay không.
- Cơ
thể đủ nước cũng giúp thận, gan lọc các chất độc tốt hơn, giảm thiểu tình trạng
tích tụ chất độc trong gan, thận dẫn đến sỏi.
- Nếu thời tiết nóng, khô
hay lao động, luyện tập thể dục nhiều thì cần phải uống nước nhiều hơn nữa.
- Màu sắc nước tiểu trong và
sáng là biểu hiện của việc uống nước đầy đủ.
- Tuy
nhiên, uống quá nhiều nước cũng không tốt vì nó có thể gây ra tình trạng thừa
nước và phù các tế bào trong cơ thể.
3.1.2. Giảm thức ăn giàu
oxalate
-Oxalat là một loại axit có thể dẫn đến sự hình thành sỏi thận oxalat canxi.
-Các loại thực phẩm chứa nhiều oxalat bao gồm các sản phẩm đồ uống như cây
đại hoàng, khoai tây, rau bina
(spinach), quả hạc (nuts) và
các loại hạt.
-Cắt giảm các loại thực phẩm này chính là cách đơn giản để phòng bệnh sỏi
thận[1], [2], [4].
3.1.3. Lựa chọn chế độ ăn
giảm lượng muối và protein động vật
- Giảm lượng muối ăn vào
cũng có thể giảm lượng oxalate trong nước tiểu, qua đó cũng có thể giảm nguy cơ
mắc sỏi thận.
- Thức ăn chứa protein động
vật như thịt, cá, trứng… mang nhiều purin, đó là những chất tự nhiên chuyển hóa
hoặc phân hủy thành axit uric trong nước tiểu và góp phần hình thành sỏi thận.
Hạn chế các thực phẩm này sẽ làm giảm nguy cơ hàm lượng axit uric trong nước
tiểu nên cũng phòng được bệnh sỏi thận. Nhiều nghiên cứu khuyến cáo nên sử dụng
các thức ăn không protein động vật như đậu đỗ[1], [2], [4].
3.1.4. Tiếp tục ăn các thực
phẩm giàu canxi nhưng cần phải lưu ý khi sử dụng các thuốc hoặc thực phẩm chức
năng cung cấp canxi
- Canxi trong thức ăn không
ảnh hưởng đến nguy cơ hình thành sỏi thận.
- Khi sử dụng các thuốc hoặc
thực phẩm chức năng cung cấp canxi cần phải được sự tư vấn của bác sĩ vì nó có
nguy cơ làm gia tăng khả năng bị sỏi thận.
3.2. Thuốc
Tùy vào loại sỏi thận mà có
những loại thuốc khác nhau để làm giảm sỏi và ngăn ngừa sự phát triển của sỏi
[1], [2], [4].
3.2.1. Sỏi canxi
Sử dụng thuốc lợi tiểu nhóm
thiazide có thể giúp phòng ngừa sự hình thành sỏi canxi.
3.2.2. Sỏi axit uric
Sỏi axit uric chiếm khoảng
15% tất cả các loại sỏi thận [gul].
Thuốc allopurinol (Zyloprim,
Aloprim) giúp làm giảm nồng độ axit uric trong máu và nước tiểu.
Ở nhiều trường hợp,
allopurinol và thuốc kiềm hóa có thể trung hòa sỏi axit uric.
3.2.3. Sỏi struvite
Việc giữ nước tiểu không
mang vi khuẩn gây nhiễm trùng được khuyến cáo trong việc phòng ngừa sỏi
struvite (sỏi nhiễm trùng). Sử dụng liều thấp kháng sinh trong khoảng thời gian
dài có thể đạt được mục tiêu này.
3.2.4. Sỏi cystine
Sỏi cystine khó khăn hơn
trong vấn đề điều trị.
Uống nhiều nước và sử dụng
thuốc làm giảm nồng độ cystine trong nước tiểu cũng được khuyến cáo góp phần
làm giảm nguy cơ hình thành sỏi.
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1.
Trần Văn Hinh (2013), Các phương pháp chẩn đoán và điều
trị bệnh sỏi tiết niệu, Nhà xuất bản Y học.
2.
Lê Đình Khánh (2014), Sỏi hệ tiết niệu (Sách
chuyên khảo), Nhà
xuất bản Đại học Huế.
TIẾNG ANH
3.
Andersson K. E., Forman A. (1986), “Effects of calcium
channel blockers on urinary tract smooth muscle”, Acta Pharmacol
Toxicol, 58 (2), pp.193-200.
4.
Gul Z., Monga M. (2014), “Medical and Dietary
Therapy for Kidney Stone Prevention”,Korean J Urol, 55, pp. 775-779.
5.
Hermanns T., Sauermann P., Rufibach K., Frauenfelder T.,
Sulser T.,Stredel R.T. (2009), “Is there a role for tamsulosin in the
treatment of distalureteral stones of 7mm or less? Results of a randomised,
doubleblind, placebo-controlled trial”, Eur Urol., 56, pp. 407-412.
6.
Miernik A. (2013), “Combined
semirigid and flexible ureterorenoscopy via a large ureteral access sheath for
kidney stones >2 cm: a bicentric prospective assessment”, World J Urol, 6 pp, DOI:
10.1007/s00345-013-1126-z.
7.
Rao P. N., Preminger G. M., Kavanagh J. P. (2011),Urinary Tract stone
disease, Springer
London Dordrecht Heidelberg New York.
8.
Sigala S., Dellabella M., Milanese G. et al. (2005), “Evidence for the presence
of alpha1 adrenoceptor subtypes in the human ureter”, NeurourolUrodyn,
24(2), pp. 142-148.
9.
Türk C., Petrick A., Sarica K. (2016), “EAU Guidelines on
Diagnosis and Conservative Management of Urolithiasis”, European
urology, 69, pp. 468–474.
10. Varela-Figueroa
DA. (2014), “Flexible and/or
semirigid ureteroscopy and holmium laser lithotripsy for kidney stones larger
than 2 cm and smaller than 4 cm: success rate and complications”, Rev Mex Urol, 74(3),
pp. 128-132.
11. Yilmaz E., Batislam E.,
Basar M. M. et al. (2005), “The comparison and efficacy of three different
a1-adrenergic blockers for distal ureteralstones”, J Urol.,
173, pp. 2010-2012.