Tuesday, March 28, 2017

HẸP EO ĐỘNG MẠCH CHỦ - Nguyễn Lân Việt


I. ĐẠI CƯƠNG
 Hẹp eo động mạch chủ là bệnh tim bẩm sinh cũng thường gặp, chiếm khoảng 8% các bệnh tim bẩm sinh. Cần phát hiện sớm ở trẻ sơ sinh hay ở trẻ nhỏ vì là bệnh nguy hiểm có thể dẫn đến tử vong. Chẩn đoán lâm sàng thường dựa vào dấu hiệu không có hay yếu của mạch bẹn so với mạch cánh tay, tiếng thổi tâm thu thường khá điển hình. Hẹp eo động mạch chủ rất hay đi kèm với các bệnh tim bẩm sinh phức tạp khác mà đặc biệt hay gặp trong hội chứng Turner (20%), hội chứng Noonan. Các biến chứng muộn của bệnh có thể gặp là phình mạch tại chỗ hẹp, tách thành động mạch chủ lên, giãn phình và vỡ các mạch máu não, tăng huyết áp động mạch. Tăng huyết áp có thể còn tồn tại ngay cả sau khi phẫu thuật sửa chữa toàn bộ đặc biệt ở các bệnh nhân can thiệp muộn.
II. GIẢI PHẪU BỆNH 

Tuesday, March 14, 2017

Sai sót y khoa trong bệnh viện

Theo Nguyễn Văn Tuấn – Bài đăng trên Tuổi Trẻ 3/1/07
Một bài viết với tựa đề khá sốc “Bệnh do… bác sĩ”. Một bệnh nhân chết sau khi trải qua một phẫu thuật phức tạp (cắt bỏ đại tràng), nhưng các chuyên gia không nhất trí về nguyên nhân tử vong và đổ lỗi cho bác sĩ. Phải đau lòng mà chấp nhận một thực tế là những trường hợp như thế này sẽ còn xảy ra trong tương lai. Vấn đề không phải là qui kết lỗi lầm cá nhân, mà là tìm hiểu nguyên nhân của hệ thống vận hành, và tiến đến một phương án an toàn hơn trong bệnh viện.
Bất định trong y khoa
Chăm sóc sức khỏe là một ngành nghề đặc biệt, vì sự liên hệ đến cá nhân và sự kì vọng cao của người bệnh vào người thầy thuốc. Trong văn hóa Đông phương chúng ta có 3 người thầy: người cha, người thầy dạy học, và người thầy chữa bệnh. Vì vai trò đặc biệt này mà có khi người thầy thuốc được gọi là “quan”: quan đốc. Công chúng có quyền kì vọng vào người thầy thuốc phải thực hành nghề nghiệp một cách cẩn thận và có trách nhiệm, không gây tác hại hay tổn hại cho bệnh nhân.
Nhưng y khoa là một ngành nghề đầy những bất định và rủi ro. Sự bất định xuất phát từ một thực tế là y khoa học ngành nghề có 50% là nghệ thuật và 50% là khoa học.
Nghệ thuật liên quan đến cảm nhận cá nhân của người thầy thuốc, và những cảm nhận này rất khác nhau giữa những người thầy thuốc. Chẳng hạn như chữa trị ung thư tuyến tiền liệt tùy thuộc vào bác sĩ nào mà bệnh nhân đến khám. Ở Mỹ, một nghiên cứu cho thấy 80% các bác sĩ niệu học (urologist) khuyên giải phẫu tuyến tiền liệt, nhưng 90% các bác sĩ ung thư và quang tuyến đề nghị chữa trị bằng quang tuyến. Một nghiên cứu qui mô khác ở Mỹ cho thấy tỉ lệ tử vong sau phẫu thuật tim can thiệp ở bệnh nhân tại các bệnh viện thuộc bang Texas cao hơn tỉ lệ ở các bệnh viện bang new York khoảng 55%. Tương tự, tỉ lệ tử vong bệnh tai biến mạch máu não ở các bệnh nhân điều trị tại các bệnh viện thuộc bang Mississippi cao hơn tỉ lệ ở bệnh nhân bang Colorado khoảng 50%.
Đối với khoa học, rất ít có những chân lí y khoa vĩnh cữu hay những qui luật xác định như trong toán học; thay vào đó là những kiến thức liên tiếp thay đổi theo thời gian. Chẩn đoán bệnh và diễn giải kết quả xét nghiệm là một vấn đề xác suất. William Osler, một ông tổ y học hiện đại, từng nói: y khoa là một khoa học của sự bất định, và một nghệ thuật của xác suất. Một thuật điều trị được xem là chuẩn vàng hôm nay có thể sẽ trở thành nguy hiểm trong tương lai.

Monday, March 13, 2017

TUMOR MARKER – CHẤT CHỈ ĐIỂM KHỐI U

                      




1. Chất chỉ điểm khối u (tumor marker) là gì?
Chất chỉ điểm khối u (tumor marker – TM) là các chất có thể được tìm thấy

trong cơ thể của người mắc bệnh ung thư. TM cổ điển là một protein có thể tìm

thấy trong máu với nồng độ cao hơn bình thường khi cơ thể bị mắc một loại ung

thư nào đó, nhưng không phải tất cả các TM đều như vậy. Một số TM có thể được

tìm thấy trong nước tiểu hoặc các dịch cơ thể khác, và một số khác có thể được tìm

thấy trong khối u hay các mô khác. Chúng có thể được tạo ra bởi các tế bào ung

thư, hoặc do cơ thể đáp ứng lại với bệnh ung thư hoặc các bệnh tật khác. Hầu hết

các TM là protein, nhưng một số các chất chỉ điểm mới là gen hoặc các chất khác.

Có rất nhiều các TM khác nhau. Một số TM chỉ có liên quan tới một loại ung

thư duy nhất, một số khác lại có thể được tìm thấy trong rất nhiều loại ung thư

khác nhau.