Wednesday, April 5, 2017

Protein sốc nhiệt - liệu pháp tương lai cho bệnh ung thư

 1.Vài nét về Protein sốc nhiệt
 Khi bị stress (như bị đốt nóng, bị đói, hoặc khi chịu tác dụng của virút, độc tố, các gốc tự do của oxy, kim loại nặng, chất ức chế tổng hợp protein) trong tế bào có tới 25 loại protein mới được tạo thành, trong đó được nghiên cứu kỹ nhất là những protein sốc nhiệt (heat shock protein HSP).
Trong điều kiện nhiệt độ bình thường HSP có trong vi khuẩn với nồng độ rất thấp nhưng khi nhiệt độ tăng cao như khi có sốt thì nồng độ HSP tăng cao.

    Ví dụ nó có thể tăng từ 1,5% lên 15% tổng protein có trong stressed E. coli. HSP làm tăng khả năng chịu nhiệt của tế bào hay vi khuẩngiúp cho VK có thể hoạt động trong điều kiện nhiệt độ cao. Có 3 loại HSPchính: HSP 90, HSP 70 và HSP 60. sau khi vi khuẩn bị thực bào và bắt đầu chịu sự tác dụng của quá trình bùng nổ hô hấp trong bạch cầu trung tính thì HSP 60 của vi khuẩn bắt đầu được tiết ra và đóng vai trò như 1 kháng nguyên chính. HSP 60 thường được tiết ra khi bị nhiễm khuẩn với Mycobacterium, Coxiella burnetii, Legionella, Treponema, Borelia. Kháng thể chống HSP 70 thường thấy có ở bệnh nhân bị malaria, schistosomiasis, trypanosomiasis, filariasis và leishmaniasis. HSPs thường có tính kháng nguyên mạnh vì chúng được sản xuất ra với một số lượng lớn trong cơ thể bệnh, chúng được chế biến bởi các tế bào trình diện kháng nguyên.
     Hệ thống miễn dịch thường có một số lượng rất lớn các tế bào có khả năng đáp ứng lại các kích thích của HSP.
    Đôi khi đáp ứng miễn dịch chống lại HSP đóng vai trò chính trong miễn dịch chống lại vi khuẩn
2. Ứng dụng mới của Protein sốc nhiệt trong điều trị ung thư


Các nhà khoa học của LB Nga đang hoàn tất giai đoạn thử nghiệm lâm sàng một loại thuốc mới có thể chống được tất cả các loại khối u ác tính thậm chí khi bệnh ung thư đã ở vào giai đoạn cuối cùng.
Loại chế phẩm có tên gọi thí nghiệm “Protein sốc nhiệt” hy vọng mới cho bệnh nhân ung thư này dự kiến sẽ được đưa vào sản xuất sau 3-4 năm nữa.

Loại chế phẩm mới này phát huy được hoạt tính “đa năng” với các loại ung thư khác trên cơ sở một loại phân tử có thể tổng hợp được tất cả các dạng tế bào.
Loại protein này ngoài khả năng bảo vệ tế bào khỏi các tổn thương còn có thể giúp tế bào sản sinh ra các kháng thể chống ung thư và qua đó tăng cường các phản ứng kháng thể.
Tuy nhiên, số lượng protein này trong cơ thể chỉ ở mức tối thiểu nên các nhà khoa học Nga đã phải tìm ra một công nghệ sinh học đặc biệt để tổng hợp nó. Họ đã tạo ra một loại gene của con người chuyên sản xuất ra protein này để rồi nhân bản nó lên.
Thành công của loại thuốc mới được các nhà khoa học Nga tìm ra nhờ vào các thí nghiệm trên vũ trụ, nơi có môi trường thích hợp (không có sức hút của Trái Đất) để tạo ra một loại tinh thể siêu tinh khiết phục vụ cho công tác phân tích X-quang.
Các nhà khoa học Nga đã đựng protein siêu tinh khiết trong ống vi mạch và gửi lên Trạm Vũ trụ không gian. Sau 6 tháng “du hành” trong ống vi mạch sẽ thu được loại tinh thể lý tưởng và chuyển về phân tích tại Nga và Nhật Bản.
Theo thông báo, loại thuốc mới không có tác dụng phụ, không có độc tính.

Liệt dây thần kinh số VII


TẢI VỀ


1. Giải phẫu chức năng dây thần kinh số VII
1.1. Nhân dây thần kinh số VII
             Nhân dây thần kinh số VII nằm ở cầu não gồm có 4 nhân: nhân vận động, nhân cảm giác (nhân bó đơn độc), nhân thực vật  gồm hai nhân (nhân lệ tỵ và nhân bọt trên cho ra dây VII’). 
          Nhân dây VII ở cầu não có hai phần, phần trên phụ trách nửa mặt trên (từ đuôi khóe mắt trở lên) còn nhân phần dưới phụ trách nửa mặt dưới. Nhân phần trên được vỏ não hai bán cầu chi phối vì vậy khi tổn thương bán cầu não một bên thì nửa mặt trên không bị liệt. Nhân phần dưới chỉ được vỏ não bên đối diện chi phối nên khi tổn thương một bán cầu não chỉ gây liệt nửa mặt dưới bên đối diện.
          Dây  thần kinh số VII phụ trách vận động các cơ bám da mặt, cơ bám da cổ, xương bàn đạp ở tai giữa (dây VII). Dây VII đi qua xương đá nhận thêm sợi phó giao cảm dây VII' chi phối hoạt động bài tiết của các tuyến nước mắt, tuyến dưới hàm, tuyến dưới lưỡi, tuyến niêm dịch của mũi và cũng nhận thêm vị giác ở hai phần ba trước lưỡi và cảm giác vòm miệng, cảm giác nông vùng ống tai ngoài và vùng da nhỏ phía sau vành tai (dây VII').
1.2. Đường đi của dây thần kinh số VII

Sunday, April 2, 2017

Bệnh ho gà

Định nghĩa
Ho gà là một bệnh nhiễm trùng cấp tính ở đường hô hấp do vi khuẩn Bordetella pertussis. Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng thường gặp ở trẻ em. Biểu hiện lâm sàng chính của bệnh là cơn ho đặc biệt.
Dịch tễ học
Bệnh xảy ra khắp nơi trên thế giới, đặc biệt ở những nước đang phát triển. Hàng năm có khoảng 50 - 60 triệu ca mắc bệnh, trong đó khoảng 600.000 đến 1 triệu trường hợp tử vong . Tuy nhiên trong 2 thập niên vừa qua chương trình tiêm chủng mở rộng phát triển nên tỷ lệ mắc bệnh đã giảm đáng kể. Trong những năm 1989, 1990, 1993 dịch ho gà xảy ra ở nhiều bang tại Mỹ với hơn 4.500 ca được báo cáo. Trong khi đó tại trung tâm Bệnh nhiệt đới thành phố Hồ Chí Minh cho thấy năm 1994 có 13 ca và năm 1996 có 1 ca.
Tại Bệnh viện trung ương Huế:
Từ năm 1980 - 1985 có 1410 ca, tỷ lệ tử vong 8,7%. Từ năm 1989 - 1993 có 246 trường hợp mắc bệnh, tỷ lệ tử vong 16,4% .
Năm 2000: 104 ca, năm 2001: 70 ca, năm 2002: 62 ca và không có ca nào tử vong.
Dịch ho gà xảy ra theo chu kỳ 3 - 5 năm, không theo mùa rõ rệt. Bệnh lây trực tiếp qua đường hô hấp giữa người với người. Cường độ lây mạnh nhất trong giai đoạn viêm long và giảm dần từ tuần thứ 3 sau khi bắt đầu có giai đoạn ho cơn. Người là vật chủ duy nhất mang mầm bệnh.
Bệnh thường lây do tiếp xúc lâu, chẳng hạn như trong gia đình (70 - 100%), tại trường học (25 -  50%). Không có tình trạng mang mầm bệnh mạn tính.
Miễn dịch từ mẹ truyền sang cho con rất yếu, nên  trẻ sơ sinh nếu gặp phải nguồn lây thì có thể mắc bệnh ngay trong những tuần lễ đầu. Trong khi đó miễn dịch chủ động tuy kéo dài nhưng có thể giảm dần theo thời gian. Do đó việc tiêm nhắc lại là điều rất cần thiết để hạn chế nguồn lây bệnh.
Đối tượng mắc bệnh: